Trong lĩnh vực thông tin kinh tế, thông tin về kế toán tài chính có vai trò rất quan trọng đối với việc ra quyết định điều hành của lãnh đạo doanh nghiệp và quyết định đầu tư của chủ sở hữu đối với các doanh nghiệp siêu nhỏ. Tuy nhiên, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của thông tin kế toán. Bài viết này tổng hợp các nhân tố có tác động đến chất lượng thông tin kế toán và một số khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng thông tin kế toán tại các doanh nghiệp siêu nhỏ (DNSN) tại Việt Nam.
Khái niệm về chất lượng thông tin kế toán
Có nhiều quan điểm khác nhau về chất lượng thông tin kế toán. Trước hết, thông tin kế toán có chất lượng cần phải đảm bảo có đầy đủ các tiêu chuẩn cần thiết. Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) và Chuẩn mực kế toán Việt Nam đều thống nhất chất lượng thông tin kế toán cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn sau:
Tính thích hợp: Tính thích hợp chính là việc thông tin kế toán có khả năng tạo ra sự khác biệt trong việc ra quyết định của đối tượng sử dụng thông tin. Dựa trên các thông tin kế toán quá khứ mà người sử dụng có thể đánh giá sự phù hợp của các chỉ tiêu kinh tế tài chính hoặc dự báo các chỉ tiêu đó trong tương lai qua thông tin hiện tại. Ví dụ, đánh giá tính thích hợp của doanh thu hiện tại thông qua việc so sánh với các chỉ số của năm trước hoặc sử dụng các chỉ số này để dự báo chỉ tiêu doanh thu trong tương lai.
Tính tin cậy (tính trung thực): Thông tin được trình bày trung thực khi nó mô tả đầy đủ, trung lập và không mắc lỗi (IASB, 2010a). Thông tin được thể hiện đầy đủ, khách quan, trung thực và không có những sai sót trọng yếu trên các nội dung trong báo cáo tài chính; đồng thời đầy đủ, chính xác đảm bảo có sự cam kết trách nhiệm của tổ chức và cá nhân trong việc ghi nhận thông tin.
Tính so sánh: Dựa trên các thông tin được cung cấp, người sử dụng có thể so sánh các thông tin kinh tế, hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp theo thời gian hoặc so sánh với các tổ chức kinh tế khác, từ đó có các quyết định kinh tế phù hợp.
Tính kiểm chứng: Biểu biện bằng việc các thông tin được kiểm chứng thông qua hoạt động kiểm toán sẽ nâng cao mức độ tin cậy đối với người sử dụng.
Tính kịp thời: Các thông tin kế toán phải cung cấp một cách đầy đủ kịp thời, đúng hoặc trước thời hạn quy định cho người cần sử dụng trước khi thông tin đó hết giá trị.
Tính dễ hiểu: Thông tin cần được phân loại, làm rõ bản chất và trình bày rõ ràng trong các báo cáo tài chính sẽ gúp người sử dụng có thể hiểu được nội dung bản chất của thông tin kế toán.
Bên cạnh các tiêu chuẩn trên, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thu thập và xử lý dữ liệu kế toán cũng góp phần làm thay đổi chất lượng thông tin kế toán, quy trình kế toán có sự thay đổi căn bản, do đó tác động tích cực đến chất lượng thông tin kế toán. Tính chính xác cao hơn, dữ liệu tin cậy và hiệu quả hơn của các thông tin tài chính thông qua hệ thống tự kiểm soát… giúp chất lượng thông tin kế toán ngày càng được nâng cao. Mặt khác, theo chế độ kế toán quy định đối với các doanh nghiệp siêu nhỏ, toàn bộ thông tin về tình hình hoạt động kinh tế tài chính một doanh nghiệp được trình bày trên các báo cáo tài chính. Nếu các báo cáo tài chính kém chất lượng, thiếu hay sai lệch các thông tin trọng yếu dẫn tới những quyết định sai lầm của nhà đầu tư, nhà quản lý và có thể dẫn đến các rủi ro cho doanh nghiệp.
Như vậy, chất lượng thông tin kế toán liên quan đến tính tin cậy, tính so sánh, kiểm chứng và đặc biệt tính hữu ích đối với người sử dụng thông tin.
Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán trên các báo cáo tài chính tại các doanh nghiệp siêu nhỏ
Hiện nay, số lượng doanh nghiệp siêu nhỏ tại Việt Nam chiếm tỷ lệ cao nhất và đang có xu hướng gia tăng. Tại thời điểm 31/12/2021, có 498.233 doanh nghiệp quy mô siêu nhỏ, chiếm 69,3% số doanh nghiệp cả nước, tăng 4,1% so với cùng thời điểm năm 2020, cho thấy vai trò quan trọng của loại hình doanh nghiệp này trong nền kinh tế. Vì vậy, thông tin tài chính, tình hình hoạt động cũng như các lĩnh vực kinh doanh của các doanh nghiệp siêu nhỏ khiến các nhà đầu tư, cá nhân khởi nghiệp và các đối tượng có nhu cầu khác ngày càng quan tâm. Tuy nhiên, việc cung cấp các thông tin kế toán có chất lượng đáp ứng nhu cầu của người sử dụng phụ thuộc vào một số yếu tố như: Nguồn nhân lực kế toán, môi trường pháp lý, môi trường kiểm soát nội bộ, việc ứng dụng công nghệ… trong công tác kế toán tại các doanh nghiệp này.
Nguồn nhân lực kế toán: Nguồn nhân lực kế toán đề cập đến 2 yếu tố gồm đạo đức nghề nghiệp và năng lực của kế toán viên, kiểm toán viên, những người tham gia vào việc lập và báo cáo các thông tin tài chính. Tại các doanh nghiệp siêu nhỏ, tiêu chuẩn của kế toán viên được thực hiện theo đúng quy định của chế độ kế toán, tuy nhiên nguồn nhân lực vẫn còn thiếu kỹ năng và kinh nghiệm (do đặc điểm của loại hình doanh nghiệp này, việc bố trí phụ trách kế toán mà không bắt buộc phải bố trí kế toán trưởng). Bên cạnh đó, các doanh nghiệp siêu nhỏ được ký hợp đồng với đơn vị kinh doanh dịch vụ kế toán để thuê dịch vụ làm kế toán hoặc dịch vụ làm kế toán nên phần nào đã ảnh hưởng chất lượng thông tin kế toán.
Môi trường pháp lý: Là những cơ sở pháp lý mà kế toán phải căn cứ vào đó để thực hiện công việc kế toán, đảm bảo cho hoạt động của kế toán phù hợp với những quy định của pháp luật. như: Luật Kế toán, Chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán, Luật DN, Luật Kiểm toán, Luật Thuế…và chịu sự quản lý, giám sát việc tuân thủ các quy định về kế toán của Nhà nước. Hiện nay, hoạt động của doanh nghiệp siêu nhỏ (DNSN) được áp dụng các thủ tục hành chính và thuế theo khoản 2 Điều 10 Luật hỗ trợ DNNVV (số 04/2017/QH14 ngày 12/6/2017) và Thông tư số 132/2018/TT-BTC. Do sự hạn chế về nguồn vốn, về năng lực và một số lĩnh vực hoạt động, nên chính sách quy định về chế độ báo cáo tài chính cũng như bộ máy kế toán cần tinh giản gọn nhẹ. Vì vậy, thông tin kế toán trên báo cáo tài chính đơn giản, ít khoản mục. Mặt khác, các thông tin báo cáo tài chính ít được kiểm toán nên làm giảm chất lượng thông tin kế toán và cơ hội tiếp cận đến các nguồn vốn của nhà đầu tư.
Môi trường kiểm soát nội bộ: Trong tổ chức kiểm soát nội bộ (KSNB), ban giám đốc là một thành phần quan trọng của bộ máy KSNB và công tác KSNB trong doanh nghiệp. Khi ban giám đốc công ty thực hiện hoạt động kiểm soát tốt sẽ cung cấp thông tin trung thực, chính xác cho những người quan tâm. Tuy nhiên trong các DNSN, việc quản lý doanh nghiệp thường tập trung vào một người duy nhất, vừa là nhà quản lý và kiêm nhiệm rất nhiều vị trí khác nhau, điều hành hoạt động nhiều khi theo cảm tính và kinh nghiệm cá nhân, không tuân thủ theo quy định. Do vậy, các DNSN thường phát sinh các rủi ro (vi phạm nguyên tắc bất kiêm nhiệm là không tránh khỏi)... Nếu các rủi ro này không được kiểm soát sẽ ảnh hưởng đến thông tin trên báo cáo tài chính.
Công nghệ thông tin: Việc ứng dụng của công nghệ thông tin trong công tác kế toán sẽ làm giảm công việc ghi chép sổ sách, nâng cao tính chính xác trong quy trình xử lý kế toán, rút ngắn thời gian cung cấp thông tin, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu thông tin, cũng như nâng cao tính linh hoạt để thay đổi và đảm bảo an toàn cho thông tin.
Với quy mô vốn nhỏ dưới 3 tỉ đồng, cùng với những hạn chế của nguồn nhân lực kế toán, lĩnh vực hoạt động nhỏ và hẹp, các DNSN rất khó có điều kiện ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác kế toán như việc mua và sử dụng phần mềm kế toán, phần mềm kiểm soát hệ thống… do vậy, ảnh hưởng đến tính chính xác, thời gian quy trình xử lý và cung cấp các thông tin kế toán có chất lượng đến người sử dụng.
Một số khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng thông tin kế toán tại các doanh nghiệp siêu nhỏ
Mặc dù vai trò của DNSN trong nền kinh tế là quan trọng, nhưng hiện nay các DNSN phải đối mặt với nhiều vấn đề chất lượng nguồn nhân lực kế toán, các thủ tục nhằm giảm thiểu rủi ro, chưa chú trọng đến kiểm soát nội bộ, dẫn đến làm giảm chất lượng của thông tin kế toán. Để khắc phục những vấn đề này và nâng cao chất lượng thông tin kế toán trên các báo cáo tài chính, tác giả đề xuất một giải pháp sau:
Về phía doanh nghiệp: Cần xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ và có kế hoạch chi phí cho hoạt động kiểm soát nội bộ. Giám đốc doanh nghiệp cần đưa ra cam kết về năng lực, phân định quyền hạn và trách nhiệm trong hoạt động kiểm soát nội bộ. hạn chế rủi ro tiềm ẩn.
Ngoài ra, doanh nghiệp cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa hệ thống thông tin kế toán; tập trung đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán. Dưới sự tác động của công nghệ 4.0, các dữ liệu kế toán được chuyển sang dạng số hóa, có sự đa dạng chuyên sâu về hình thức biểu hiện, phân tích và đánh giá, nếu kế toán viên không có được những kiến thức chuyên sâu về kế toán và công nghệ thông tin sẽ ảnh hưởng đến việc xử lý và cung cấp thông tin kế toán có chất lượng.
Về phía cơ quan nhà nước: Hiện tại các văn bản quy định việc tổ chức hoạt động của DNSN gồm: Thông tư 132/2018/TT-BTC, chế độ kế toán doanh nghiệp siêu nhỏ: Quy định chế độ kế toán, phương pháp tính thuế, hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác kế toán; Nghị định 39/2018/NĐ-CP, ngày 11/03/2018, quy định một số điều của Luật Hỗ trợ DNNVV; Thông tư 33/2016/TT-BTC quy định biểu mẫu báo cáo tài chính của DNSN. Tuy nhiên, các văn bản còn một số nội dung đan xen, chưa có những hướng dẫn cụ thể đối với người thực hiện công tác kế toán cũng như các nghiệp vụ cho mục đích thuế. Vì vậy, tác giả có khuyến nghị Bộ Tài chính nên xem xét ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết công tác kế toán cho loại hình doanh nghiệp này.
Về phía người làm công tác kế toán: Nhân viên kế toán trong các DNSN phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, rèn luyện tu dưỡng đạo đức nghề nghiệp. Doanh nghiệp cần tạo cơ hội, điều kiện cho nhân viên được trau dồi, bồi dưỡng kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn, cập nhật tiến bộ khoa học công nghệ trong công việc kế toán. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần quan tâm công tác tuyển dụng để lựa chọn những nhân viên trúng tuyển phải đủ năng lực, có phẩm chất đạo đức, trách nhiệm cao trong công việc.
Có thể nói, việc nghiên cứu phân tích đánh giá tác động của các nhân tố đến chất lượng thông tin kế toán nhằm đề ra giải pháp sẽ góp phần tăng độ tin cậy thông tin kế toán trên báo cáo tài chính, giúp doanh nghiệp có nhiều cơ hội tiếp cận đến các nguồn vốn đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh./.
Tài liệu tham khảo
Quốc hội (2017), Luật 04/2017/QH14 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa;
Chính phủ (2018), Nghị định 39/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa;
Bộ Tài chính (2012), Thông tư số 214/2012/TT-BTC về việc ban hành hệ thống 37 chuẩn mực kiểm toán;
TS Nguyễn Thị Hồng Nga, Tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán, Tạp chí Kế toán & Kiểm toán, 131, 30-33..
ThS. Nguyễn Thị Mai Hiên
Khoa Kế toán - Trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Nội