Chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi đã giải phóng một địa bàn chiến lược quan trọng, dẫn đến sự suy sụp và tan rã về chiến lược của địch. Mở ra thời cơ tổng tiến công chiến lược, đồng thời tạo thời cơ cho chiến dịch Huế - Đà Nẵng
Chiến dịch tiến công hình thành trong quá trình tổng tiến công chiến lược
Ngay sau khi giải phóng Buôn Ma Thuột và thắng lớn trên chiến trường Tây Nguyên, trên cơ sở phát hiện những lúng túng và sai lầm trong chỉ đạo chiến lược của địch, ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị khẳng định: “Thời cơ chiến lược đã đến, hạ quyết tâm chuyển cuộc tiến công chiến lược thành cuộc tổng tiến công chiến lược, chuyển phương án cơ bản sang phương án thời cơ, hoàn thành kế hoạch trong hai năm 1975 - 1976 ngay trong năm 1975”. Với hướng tiến công chiến lược chủ yếu là Sài Gòn, nhưng trước mắt ta nhanh chóng tiêu diệt toàn bộ quân địch trong Vùng chiến thuật 1, từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi, giải phóng Huế, Đà Nẵng.

Chiến dịch Huế-Đà Nẵng là một chiến dịch tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn,
diễn ra trong một thời gian ngắn, giành được thắng lợi lớn.
Trên cơ sở quyết tâm được Bộ Chính trị quyết định, chiến dịch tiến công Trị - Thiên - Huế (từ ngày 05-26/3/1975), giải phóng các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên và thành phố Huế trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 được tổ chức khẩn trương và cụ thể. Chiến dịch diễn ra hai đợt:
Đợt 1 (từ ngày 05 - 20/3), Quân đoàn 2 và lực lượng vũ trang địa phương tiến công vào tuyến phòng thủ của địch ở Quảng Trị bằng tinh thần “Thần tốc, táo bạo, quyết thắng”. 3 giờ sáng ngày 18/3, ta giải phóng thị xã Quảng Trị, buộc địch co cụm về Thừa Thiên - Huế.
Đợt 2 (từ ngày 21- 26/3), ta phát triển tiến công và giải phóng Thừa Thiên - Huế. Ở hướng Nam, Quân đoàn 2 tiến công làm chủ các điểm cao 294, 520, 560, núi Kim Sắc, đánh sập cầu Thừa Lưu, cắt đứt đường số 1. Hướng bắc Huế, lực lượng vũ trang địa phương tiến công các khu vực Mỹ Chánh, Lương Mai, Vân Trình. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, Bộ Tư lệnh tiền phương Quân đoàn 1 - Quân khu 1 (Quân đội Sài Gòn) rút chạy khỏi Huế theo đường biển về Đà Nẵng. Ta kịp thời phát hiện và triển khai lực lượng chặn đánh, dùng pháo tầm xa khống chế cửa Thuận An, Tư Hiền. Sư đoàn 324 (Quân đoàn 2) phát triển đánh chiếm cảng Tân Mỹ và bờ Nam cửa Thuận An; đồng thời, bộ binh và xe tăng tiến công vào thành phố Huế. 10 giờ 30 phút ngày 26/3, thành phố Huế hoàn toàn giải phóng, tạo thuận lợi cho quân và dân các địa phương ở Thừa Thiên nổi dậy giải phóng toàn tỉnh.
Tiếp đà thắng lợi, dưới sự chỉ đạo chỉ huy sáng suốt, kịp thời của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh, quân dân Trị - Thiên - Huế và Quân đoàn 2 đã nắm vững thời cơ chiến lược, nhanh chóng tiến công tiêu diệt, làm tan rã hoàn toàn lực lượng của địch, làm thất bại kế hoạch co cụm ở Trị - Thiên - Huế và kế hoạch bảo toàn lực lượng rút chạy về co cụm ở Đà Nẵng của chúng. Toàn bộ quân địch ở Trị - Thiên - Huế và hệ thống chính quyền địch từ tỉnh, huyện, xã hoàn toàn bị tan rã, thành phố Huế được giải phóng. Trong Điện khen của Quân ủy Trung ương viết: “Việc đánh chiếm và giải phóng thành phố Huế là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược và chính trị rất lớn. Chiến công đó đã làm cho nhân dân cả nước nức lòng phấn khởi, làm cho địch suy yếu thêm nghiêm trọng. Các đồng chí đã góp phần làm rạng rỡ truyền thống đấu tranh anh dũng của quân và dân cả nước”.
Tiếp sau Chiến dịch Trị - Thiên - Huế thắng lợi là Chiến dịch giải phóng Đà Nẵng (từ ngày 26 - 29/3), chiến dịch tiến công của lực lượng vũ trang Quân khu 5. Chiến dịch diễn ra làm hai đợt:
Đợt 1 (từ ngày 26 - 28/3), ta đánh chiếm các vị trí vòng ngoài, triển khai lực lượng áp sát Đà Nẵng. Ở hướng Bắc, Trung đoàn 18 (Sư đoàn 325) đánh căn cứ Lữ đoàn thủy quân lục chiến của địch ở đèo Phước Tượng, Ga Thừa Lưu và Đồn Thổ Sơn, đèo Phú Gia, đánh địch phản kích ở Lăng Cô. Đến 20 giờ ngày 28/3, ta hoàn toàn làm chủ khu vực này, tạo bàn đạp đánh lên đèo Hải Vân. Hướng Nam, Sư đoàn 2 của Quân khu 5 đánh chiếm Thăng Bình, Duy Xuyên và Nam Phước... Các hướng khác cùng đưa được lực lượng vào vị trí xuất phát tiến công, áp sát Đà Nẵng.
Đợt 2 (29/3), pháo binh Quân đoàn 2 và Quân khu 5 bắn phá sân bay Đà Nẵng, sân bay Nước Mặn, bán đảo Sơn Trà... ở hướng Nam. Sư đoàn 2 (sau khi tổ chức vượt sông đêm 28/3), 5 giờ ngày 29/3, sử dụng Trung đoàn 38 chiếm Vĩnh Điện và phát triển về Non Nước, sân bay Nước Mặn, rồi tiến ra hướng Sơn Trà; Trung đoàn 1 tiến vào Đà Nẵng, đánh tan cụm quân địch ở bến đò Xu, sau đó phối hợp với một bộ phận của Trung đoàn 96, Tiểu đoàn 941 và Đội biệt động Lê Độ đánh vào các mục tiêu trong thành phố. 12 giờ ngày 29/3, Trung đoàn 1 chiếm Sở Chỉ huy Quân khu 1 - Quân đoàn 1 (Quân đội Sài Gòn) và sân bay Đà Nẵng; Trung đoàn 97 của Quân khu 5 đánh chiếm Hội An lúc 8 giờ ngày 29/3, sau đó đánh địch ở An Đông, Mỹ Khê và phát triển về Sơn Trà. Hướng Bắc, Sư đoàn 325 đánh địch ở đèo Hải Vân, chiếm kho xăng Liên Chiểu và tiến vào trung tâm thành phố lúc 12 giờ. Hướng Tây Bắc, Trung đoàn 9 (Sư đoàn 304) đánh Sở Chỉ huy Sư đoàn 3 của địch ở Phước Tượng, sau đó phát triển đánh chiếm Tòa thị chính. Hướng Tây Nam, Trung đoàn 24 đánh chiếm các điểm cao 1005, 1078, 918 ở núi Đồng Lâm; Trung đoàn 66 đánh Phú Hưng, Ái Nghĩa và căn cứ Hòa Cầm, sân bay Đà Nẵng. Đến 15 giờ ngày 29/3, chiến dịch kết thúc, ta giải phóng hoàn toàn Đà Nẵng và các vùng phụ cận.
Chiến dịch tiến công giải phóng Trị - Thiên - Huế và Đà Nẵng là chiến dịch tác chiến hiệp đồng quân binh chủng quy mô lớn, diễn ra trong thời gian ngắn, công tác chuẩn bị gấp, là một thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược và chính trị rất quan trọng; thể hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy chiến dịch linh hoạt, sáng suốt của Đảng và quân đội ta, sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang; là minh chứng cho sức mạnh vô địch của thế trận chiến tranh nhân dân Việt Nam. Từ những thắng lợi này, ta có thế vững chắc hơn, lực lượng mạnh hơn để thần tốc, táo bạo tiến vào giải phóng Sài Gòn.
Chiến dịch làm thay đổi lớn tương quan lực lượng giữa ta và địch
Chiến dịch Huế-Đà Nẵng đã trực tiếp đập tan âm mưu co cụm chiến lược của địch, cùng với chiến dịch Tây Nguyên góp phần quyết định làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng về mặt chiến lược, tạo ra sự nhảy vọt về cục diện chiến tranh hoàn toàn có lợi cho ta, đẩy nhanh tới chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Ta đã tiêu diệt một lực lượng lớn quân địch trong một thời gian ngắn. Chỉ trong một thời gian ngắn ta đã tiêu diệt được nhiều sư đoàn chủ lực của địch, trong đó có nhiều sư đoàn tinh nhuệ như sư thủy quân lục chiến, sư 1 bộ binh, sư không quân, loại khỏi vòng chiến đấu 12 vạn tên địch, làm tan rã 137.000 phòng vệ dân sự; ta thu 129 máy bay, 179 tăng thiết giáp, 327 khẩu pháo, hơn 1.100 xe quân sự và tàu xuồng...
Tạo thêm địa bàn chiến lược mới có ý nghĩa quan trọng nhiều mặt. Các tỉnh mới được giải phóng trong chiến dịch Huế - Đà Nẵng, cùng một vùng mới giải phóng ở các tỉnh Tây Nguyên đã tạo nên vùng hậu phương chiến lược hoàn chỉnh có lợi cho việc bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, thuận tiện cho việc cơ động bằng đường bộ, đường biển, đường không nối liền với miền Bắc xã hội chủ nghĩa, hậu phương lớn của cả nước, đáp ứng kịp thời việc tăng cường lực lượng, bổ sung vật chất cho cuộc tiến công quy mô lớn vào Sài Gòn trong một thời gian ngắn nhất.
Chiến dịch Huế-Đà Nẵng là một chiến dịch tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, diễn ra trong một thời gian ngắn, giành được thắng lợi lớn, cho ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu.
Thắng lợi của Chiến dịch khẳng định sự nhạy bén, tài tình của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh trong chỉ đạo, điều hành tác chiến chiến dịch, nổi bật là nghệ thuật tạo và nắm thời cơ.
Về nghệ thuật quân sự, đòn tiến công Huế-Đà Nẵng là sự chuyển hướng tiến công sáng suốt, linh hoạt và rất kịp thời của ta, tạo sự sụp đổ dây chuyền nhanh chóng của địch. Trong quá trình tiến công, quân ta đã nhanh chóng cắt đường 1, chia cắt cô lập Huế và Đà Nẵng, hình thành thế bao vây, tiến công áp đảo bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng từ nhiều hướng, không cho địch kịp đối phó và rút chạy. Đòn tiến công Huế-Đà Nẵng còn là sự kết hợp hoạt động hết sức chặt chẽ, sự chủ động, táo bạo tiến công khi thời cơ đến của quân và dân Quân khu Trị-Thiên, Quân khu 5 cùng Quân đoàn 2 và các đơn vị bộ đội chủ lực đứng chân trên địa bàn, thực sự là đòn tiến công chiến lược có ý nghĩa to lớn về nhiều mặt.
Cùng với thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế-Đà Nẵng đã làm thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta nhanh chóng đi đến thắng lợi cuối cùng./.
Minh Châu (Tổng hợp)
Tài liệu tham khảo
Báo Quân khu 7
Báo Quân khu 3 Online
Nhân vật Sự kiện -Chuyên trang tư liệu của Thông tấn xã Việt Nam