Tóm tắt
Chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, mang lại thành công và thịnh vượng cho nhiều nước ở vùng Đông Á và Đông Nam Á, như: Hàn Quốc, Đài Loan và Thái Lan. Sau gần 40 năm đổi mới, cải cách và mở cửa, hướng về xuất khẩu, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu, song cũng không ít những thách thức, đòi hỏi phải có cách tiếp cận mới trên cơ sở chọn lọc những bài học kinh nghiệm của các nước đi trước. Việt Nam và các nước ở vùng Đông Á khi bước vào công nghiệp hóa có một số điểm tương đồng về điều kiện kinh tế, tự nhiên, xã hội, trong đó Hàn Quốc thực sự là một điểm sáng, khá thành công trong việc chuyển từ công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu chuyển sang công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. Vì vậy, nghiên cứu tiến trình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu của Hàn Quốc không chỉ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, mà còn có tính tham khảo kinh nghiệm cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
Kinh nghiệm công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu của Hàn Quốc.
Sau Hiệp ước Hòa Bình năm 1953, Hàn Quốc gặp muôn vàn khó khăn như thiếu hụt nghiêm trọng nguồn tài nguyên thiên nhiên, dân số đông, đất đai ít, trong đó đất canh tác chỉ chiếm 1/4 và đặc biệt chưa có một nền công nghiệp đúng nghĩa. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng - kỹ thuật như giao thông, cầu cảng, thông tin liên lạc vv… cũng bị tàn phá nặng nề, khiến Hàn Quốc phải thực hiện chính sách công nghiệp thay thế nhập khẩu trong bối cảnh dựa vào Hoa Kỳ cả về quân sự lẫn kinh tế. Hòa Kỳ đã viện trợ cho Hàn Quốc từ năm 1953 đến 1962 với số tiền lên tới 2 tỷ USD. Hàn Quốc đã tiến hành công nghiệp để cung cấp những nhu cầu cấp thiết cho người dân nhằm vừa thay thế nhập khẩu, vừa giảm bớt mất cân đối nghiêm trọng giữa cung và cầu, góp phần ổn định xã hội. Tuy nhiên, nếu giữ mãi hướng tiêu thụ sản phẩm này để đảm bảo nền kinh tế độc lập sẽ dẫn tới tình trạng các ngành công nghiệp khai thác cạn kiệt thị trường nội địa và không có điều kiện phát triển tiếp. Đây là hiện tượng khá phổ biến ở các nước đang phát triển thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu, trong đó có Hàn Quốc.
Trong những năm đầu triển khai chiến lược thay thế nhập khẩu do khai thác được tình trạng thiếu cung và quyền áp dụng chế độ bảo hộ mậu dịch nên tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc đạt khá cao. Song do giới hạn thị trường, càng về sau tốc độ tăng trưởng càng giảm. Tới năm 1960, tăng trưởng của GNP chỉ đạt 1,9%. Tăng trưởng kinh tế giảm so với mức tăng của các năm trước kéo theo thất nghiệp và lạm phát tăng, gây sự bất ổn định xã hội.
Như vậy, chiến lược thay thế nhập khẩu đã không được thành công như mong đợi, Hàn Quốc vẫn là một trong những nước nghèo nhất thế giới với tốc độ tăng trưởng GDP trung bình đạt 5% trong suốt những năm cuối của thập kỷ 1950. Vì vậy, việc mở rộng thị trường cho các ngành công nghiệp non trẻ trở thành nhiệm vụ quan trọng cho sự phát triển kinh tế và phát triển công nghiệp.
Nhận thức được vấn đề này qua thực tế và được sự tư vấn của các chuyên gia kinh tế nước ngoài, Chính phủ của Tổng thống Park Chung Hee đã nhanh chóng chuyển sang chiến lược hướng về xuất khẩu. Để thực hiện chiến lược mới này, Hàn Quốc đã thực hiện hàng loạt biện pháp và chính sách khác nhau và góp phần làm nên thành công của công cuộc công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu:
Về mặt thể chế, Hàn Quốc thành lập Bộ Kế hoạch Kinh tế. Đây là Bộ siêu quyền lực có quyền ra các quyết định kinh tế, Bộ này đảm nhiệm các nhiệm vụ chia sẻ quyền lực giữa các Bộ chuyên ngành như kế hoạch, công nghiệp và tài chính. Sự kết hợp các nhiệm vụ và biện pháp này đã tạo ra một nhà nước mạnh và có vai trò lãnh đạo trong chiến lược phát triển của đất nước. Những biện pháp nêu trên đã có tác dụng làm cho nền kinh tế chuyển biến ít nhiều trong xuất khẩu. Tất cả các hoạt động khuyến khích xuất khẩu do Hội đồng đẩy mạnh Xuất khẩu đảm nhiệm. Hội đồng tạo điều kiện thuận lợi cho những ai mong muốn xuất khẩu, phổ biến các thông tin về thị trường, tăng cường các mối quan hệ và kết hợp lợi ích giữa nhà nước và tư nhân, tăng cường khuyến khích giới kinh doanh và cộng đồng nói chung, tổ chức hội thảo và tiếp nhận những ý kiến, góp ý của giới kinh doanh về những trở ngại đối với xuất khẩu.
Về huy động nguồn vốn, để có vốn hỗ trợ hoạt động cho các doanh nghiệp công nghiệp và tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu, nhà nước đã mở rộng nguồn vốn và phân phối chúng theo những mục tiêu kế hoạch. Các hoạt động này vừa hướng vào các thị trường trong nước, vừa tìm tới các nguồn nước ngoài.
Đối với các nguồn vốn trong nước, nhà nước đẩy mạnh tiết kiệm, huy động các nguồn ngắn hạn, tăng ngân sách và giảm chi tiêu để tập trung tiền của vào các kênh tài chính phục vụ xuất khẩu và phát triển công nghiệp. Năm 1965, ngân hàng đã nâng lãi suất tiền gửi từ 12% lên 26,5%. Kết quả là tiền gửi vào ngân hàng thương mại tăng gần gấp đôi mỗi năm. Tiền gửi tiết kiệm so với tổng thu nhập quốc dân đã tăng từ 3,8% năm 1965 lên 21,7% năm 1969. Nghĩa là 1/5 thu nhập đã không chuyển sang quỹ tiêu dùng mà quay lại tạo vốn cho phát triển công nghiệp. Việc này tạm thời hạn chế dung lượng thị trường hàng tiêu dùng nội địa, song nó không ảnh hưởng tới khu vực công nghiệp xuất khẩu và vẫn giữ được tiềm năng cho thị trường nội địa sau này.
Song song với chính sách khuyến khích tiết kiệm, thuế cũng được tăng cường để tạo thêm ngân sách, thêm vốn. Bước sang giai đoạn này, bộ máy thu thuế và chính sách thu thuế đều được cải tiến. Năm 1966, cơ quan thuế toàn lãnh thổ đã được thành lập trực thuộc Bộ Tài chính với quyền hạn được mở rộng trong việc định thuế, kiểm tra, thu thuế trực tiếp và phạt nặng các xí nghiệp lơ là hoặc chậm nộp thuế. Nhiều nhà kinh tế Hàn Quốc nhận xét rằng ở nhiều nước đang phát triển có hệ thống thu thuế tương tự như Hàn Quốc, song ở rất ít nước cơ quan thuế có thể kết hợp với việc thu thuế và nộp phạt tiền một cách nhuần nhuyễn như ở Hàn Quốc. Kết quả là cơ quan thuế đã trở thành một hệ thống tài trợ quan trọng cho những chương trình đầy tham vọng vào những năm 1960. Riêng thuế đánh vào thu nhập cá nhân của khu vực công nghiệp năm 1965 là 1,28% tổng thu nhập quốc dân. Năm 1970, loại thuế này lên tới 3,51% tổng thu nhập quốc dân.
Nhằm dành thu nhập từ thuế nhiều hơn cho phát triển công nghiệp, nhà nước Hàn Quốc đã cố gắng giảm bớt chi phí cho cả quân sự lẫn dân sự để giành đầu tư cho phát triển. Phần đầu tư từ ngân sách vào khu kinh tế nhà nước đã tăng lên từ 4% GNP vào thời gian 1963 - 1965 lên gần 6% vào những năm sau đó. Với chủ trương tăng nguồn tích lũy trong nước, vốn tích lũy từ các nguồn trong nước trong tổng số đầu tư tăng từ 25% vào năm 1962 lên 60,9% vào năm 1971 và tỷ lệ đầu tư trong tổng thu nhập quốc dân tăng từ 15% lên 25% trong cùng thời kỳ. Phần đầu tư của viện trợ nước ngoài trong tổng đầu tư giảm mạnh từ 50% vào đầu những năm 60 xuống 20% vào những năm 90.
Cùng với việc tìm nguồn mới trong nước để tăng đầu tư cho công nghiệp đặc biệt là công nghiệp hướng về xuất khẩu phát triển nhanh, ngay từ thời gian này, chính phủ Hàn Quốc đã triển khai chính sách khai thác nguồn đầu tư của tư bản nước ngoài. Bộ luật đầu tư ra đời từ năm 1960, song hai năm sau luật này mới được triển khai.
Ngoài ngân hàng trung ương, nhà nước còn thành lập một loạt ngân hàng chuyên môn như: Ngân hàng phục vụ công nghiệp có quy mô vừa và nhỏ (1961), Ngân hàng nhân dân phục vụ cho các công ty có quy mô nhỏ (1963), Ngân hàng xây dựng nhà ở thành lập 1967... Các khoản cho vay từ chính phủ và Ngân hàng Hàn Quốc là nguồn chủ yếu cho hoạt động của các Ngân hàng chuyên môn. Các khoản tín dụng này đều nằm dưới sự giám sát trực tiếp của Bộ Tài chính.
Nhằm tăng tính cạnh tranh cho ahàng xuất khẩu, chính phủ của Tổng thống Park Chung Hee còn tăng cường sử dụng chính sách tiền lương thấp. Tuy nhiên, biện pháp giữ giá lương thấp để hỗ trợ cho công nghiệp không phải là biện pháp tốt vì sự hy sinh của nông nghiệp cho công nghiệp đã dẫn tới tình trạng giảm sút sản xuất lúa gạo. Sau năm 1968, chính phủ đã thay đổi chính sách này. Năm 1969, Chính phủ đã thực hiện chính sách 2 mặt đối với ngũ cốc, tức là mua của nông dân với giá cao hơn song bán cho người tiêu dùng với giá hạ hơn.
Về thu hút đầu tư nước ngoài và xây dựng các khu chế xuất. Việc xây dựng các đặc khu chế xuất cùng với những điều kiện ưu đãi dành cho các công ty nước ngoài hoạt động để kích thích xuất khẩu là yếu tố không thể thiếu được đối với bất kỳ nước chậm phát triển nào muốn dựa vào vốn bên ngoài mở rộng đầu tư công nghiệp. Các khu công nghiệp hoặc khu chế xuất với hệ thống hạ tầng cơ sở đồng bộ là nơi lý tưởng để dòng vốn đem lại hiệu quả cao, nhờ đó dòng đầu tư trực tiếp chảy vào và được nước chủ nhà sử dụng triệt để.
Hàn Quốc thành lập khu chế xuất Masan (1971) và Iri (1975). Các khu công nghiệp này đã nhanh chóng thu hút được sự chú ý của các công ty tư bản nước ngoài. Ở Masan, sau 4 năm đầu đi vào hoạt động đã huy động được 88,5 triệu USD đầu tư của nước ngoài, trong đó thu hút vốn của Nhật Bản lên tới 77,7 triệu USD. Đến giữa thập kỷ 1970, trong số 105 hàng hóa xuất khẩu, Nhật Bản chiếm đến 95%.
Nếu không kể cả đầu tư vào các công trình hạ tầng cơ sở, Bộ Tài chính Hàn Quốc công bố năm 1986 có 2,6 tỷ USD đầu tư nước ngoài đã được đầu tư ở đây, trong đó có 1,5 tỷ dành cho công nghiệp chế tạo; hạ tầng cơ sở gồm không chỉ dịch vụ công cộng, điện, nước mà cả ngân hàng, hoạt động tài chính và khách sạn chiếm tỷ lệ bằng 2/3 số vốn trong công nghiệp. Điều đó chứng tỏ để xây dựng nền sản xuất có hiệu quả, vấn đề không phải chỉ là sự ra đời thật nhiều cơ sở sản xuất, mà đi kèm với nó là môi trường đầu tư hợp lý, có đủ các yếu tố của quá trình sản xuất hàng hóa cũng như dịch vụ.
Trong 4 nhóm nước và lãnh thổ công nghiệp châu Á, chỉ có Hàn Quốc là không phụ thuộc nhiều vào đầu tư trực tiếp mà nguồn lực tài chính cho công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu dựa chủ yếu dựa vào vay tín dụng. Hàn Quốc có những thế mạnh riêng để làm như vậy. Dù rằng đầu tư trực tiếp chỉ chiếm 3,7% tổng sản phẩm quốc dân năm 1990, nhưng Hàn Quốc vẫn đạt được nhiều thành công trong chương trình công nghiệp hóa hướng ngoại của họ.
Về phát triển khoa học - công nghệ, ngay từ giữa những năm 1960, Chính phủ Hàn Quốc đã tập trung tài chính để xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở phục vụ cho các hoạt động nghiên cứu và triển khai. Kết quả là hàng loạt viện nghiên cứu công nghệ được thành lập và đi vào hoạt động trong các lĩnh vực hẹp như phần mềm máy tính, động cơ diezen, máy, bán dẫn… đến các lĩnh vực rộng như lập dự án quốc gia về nghiên cứu và triển khai, sử dụng có hiệu quả tài nguyên biển, hay năng lượng nguyên tử… Mức đầu tư cho nghiên cứu và triển khai được nâng từ 0,58% tổng sản phẩm quốc dân năm 1980 lên 1,9% vào năm 1989, 3,5% vào năm 1995 và tăng lên 5% vào năm 2000.
Chính phủ Hàn Quốc đã hỗ trợ tích cực cho các hoạt động nghiên cứu và triển khai dưới dạng tài chính, thuế và tham gia thị trường cũng như bảo trợ thị trường nếu các kết quả nghiên cứu được thương mại hóa (mua bán giữa cơ sở nghiên cứu và cơ sở sản xuất). Hàn Quốc đã thành lập nhiều công ty hỗ trợ kinh doanh có chức năng đầu tư hoặc giúp vốn cho các doanh nghiệp mới thuộc các ngành kỹ thuật phức tạp và có thể chịu rủi ro, đặc biệt vào thời kỳ đầu với điều kiện dễ dàng hoặc ưu đãi (thủ tục đơn giản, lãi suất thấp và thời gian kéo dài, có thể đến 15 năm). Các công ty này sẵn sàng chia sẻ tối đa 30% lỗ nếu dự án không thành công. Trong trường hợp dự án đem lại hiệu quả cao, công ty đỡ đầu tài chính được quyền hưởng phần lãi tương đương như lỗ. Ngoài ra, hệ thống ngân hàng thương mại của Hàn Quốc cũng tham gia hỗ trợ tài chính cho dự án phát triển khoa học - công nghệ. Trước khi phê chuẩn dự án được xem xét kỹ lưỡng về nội dung, dựa trên tiêu chuẩn tuổi tác cũng như kinh nghiệm của nhà kinh doanh.
Ưu đãi thuế cũng đóng vai trò hỗ trợ thúc đẩy tiến bộ. Bên cạnh một số khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài, Hàn Quốc còn ban hành nhiều hệ thống thuế ưu đãi khác nhau cho việc nghiên cứu, triển khai như: Miễn thuế thu nhập cho các khoản chi đầu tư vào phát triển nhân lực và kỹ thuật; phần lợi nhuận được công ty giữ lại cho nghiên cứu và triển khai cũng được miễn thuế công ty. Những công ty thành lập phòng thí nghiệm riêng được miễn 8% thuế công ty và thuế thu nhập đối với khoản phí tổn cho thiết bị của phòng thí nghiệm (nếu các phương tiện này là sản phẩm nội địa thì được 10%), những phí tổn cho việc xin phép và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu, triển khai được miễn hoàn toàn thuế công ty và thuế thu nhập...
Có thể nói, Hàn quốc đã thành công trong chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu nhờ lựa chọn đúng vấn đề trọng tâm để giải quyết trong chính sách phát triển công nghiệp nói riêng và kinh tế nói chung. Thêm vào đó, với hàng loạt biện pháp sáng tạo, tích cực, bộ máy thực hiện thống nhất, chính phủ Hàn Quốc không những đã đưa các ngành công nghiệp trì trệ vào cuối thập kỷ 50 thoát ra khỏi bế tắc, mà còn phát triển thêm những ngành công nghiệp nhẹ mới nhờ phát huy được lợi thế lao động rẻ tiền mở rộng xuất khẩu, giúp cho những loại hình sản xuất thay thể nhập khẩu ngày một mạnh hơn. Những tác động dây chuyền này đã giúp nền kinh tế có nhiều chuyển biến tích cực và đạt nhiều thành quả đáng kể. Kết quả tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc dân trong khoảng thời gian 1962 - 1971 đã tăng 2 lần và đạt bình quân là 9,5% năm. Bình quân thu nhập quốc dân tính theo đầu người cũng tăng 6,9% năm, vượt xa con số bình quân là 0,75% giai đoạn 1953 - 1962.
Một số gợi ý cho Việt Nam
Câu chuyện thành công của Hàn Quốc về quá trình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu trong thập niên 60, 70 có thể đưa ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ nhất, Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc hoạch định chính sách công nghiệp hóa và điều hành kinh tế vĩ mô, chiến lược tạo vốn, nâng cao hiệu quả đầu tư, chính sách phát huy nguồn lực con người, mở rộng quan hệ đối ngoại. Nhà nước không chỉ phát huy nội lực mà còn khai thác tốt các yếu tố ngoại lực tạo tăng trưởng kinh tế cao.
Thứ hai, việc lựa chọn mô hình công nghiệp hóa có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển. Các nước này đều lựa chọn chiến lược theo hai giai đoạn cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của mình. Trong từng giai đoạn, mỗi chiến lược đều có vị trí quan trọng và những mặt mạnh và những điểm hạn chế. Do vậy, việc chọn thời điểm để điều chỉnh chiến lược phát triển có ý nghĩa rất quan trọng. Việc chuyển sang chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu khi những điều kiện trong nước và trên thế giới có nhiều thay đổi thích hợp, có tác động tới cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. Do vậy, việc lựa chọn thời điểm chuyển sang chiến lược mới sẽ tạo nên cú huých cho sự phát triển kinh tế.
Thứ ba, nhờ lựa chọn một cách đúng đắn vấn đề để mở cửa thị trường (đặc biệt là thị trường nước ngoài) làm trọng tâm cần giải quyết trong chính sách phát triển công nghiệp nói riêng và kinh tế nói chung cộng với hàng loạt biện pháp sáng tạo, tích cực, bộ máy thực hiện thống nhất và từ những đặc thù của mình, Hàn Quốc tiến hành theo một con đường rất riêng, bắt đầu từ công nghiệp nặng và hóa chất...
Thứ tư, trong quá trình công nghiệp hóa, Hàn Quốc rất coi trọng phát triển giáo dục, khoa học công nghệ. Đây là những vấn đề cực kỳ quan trọng trong thời kỳ đầu khi tiến hành công nghiệp hóa vẫn dựa trên lợi thế so sánh giản đơn. Nhưng khi đất nước phát triển đến một ngưỡng, khi lợi thế cạnh tranh giản đơn không còn nữa thì điều hết sức quan trọng đối với một quốc gia là phải tạo ra cho mình một lợi thế cạnh tranh.
Thứ năm, mặc dù Hàn Quốc đã tập trung vào mục tiêu tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân, nhưng vấn đề bảo vệ môi trường lại bị sao nhãng, do đó Hàn Quốc sau này đã phải điều chỉnh để phát triển bền vững./.
Tài liệu tham khảo
1. Lê Cao Đoàn (2008), Báo cáo tổng hợp đề tài KX02-01 “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thế giới”. Nxb Khoa học xã hội.
2. Nguyễn Quang Hồng (2002), Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Hàn Quốc trong giai đoạn 1960 - 1995: Kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam.
3. Mohamed Ariff và Hal Hill, (1992), Công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu: Kinh nghiệm của ASEAN, Nxb Khoa học xã hội.
4. Hoàng Thị Thanh Nhàn (2003), điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở Hàn Quốc, Malaysia và Thái Lan, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Trần Quế (2000), Lựa chọn sản phẩm và thị trường thời kỳ công nghiệp hóa của các nền kinh tế đông Á, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Lê Bàn Thạch và Trần Thị Trị, (2000), Công nghiệp hóa ở NIEs Đông Á và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, Nxb Thế giới.
7. Nguyễn Xuân Thắng (2007), Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Trần Văn Thọ (1997), Công nghiệp hóa Việt Nam trong thời đại châu Á - Thái Bình Dương, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
9. Trần Đình Thiên (2007), Chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam: Hoàn cảnh mới và tư duy đột phá để tiến kịp.
TS. Vương Thanh Tú
Khoa Kinh tế Chính trị, Học viện Chính trị Công an Nhân dân