Chỉ số cải cách hành chính năm 2020 của các Bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (PAR INDEX 2020) và Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước năm 2020 (SIPAS 2020) vừa được Ban chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ công bố đã tiếp tục ghi dấu sự tiến bộ và cải thiện đáng kể ở hầu hết các tiêu chí của nhiều đơn vị.
Chỉ số cải cách hành chính bao gồm 2 Bộ tiêu chí đánh giá riêng cho cấp bộ và cấp tỉnh, được thiết kế, xây dựng trên cơ sở cụ thể hoá và bám sát các nhiệm vụ cải cách hành chính (CCHC) mà Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao cho các bộ, các tỉnh thực hiện. Năm 2020, đối tượng xác định Chỉ số CCHC ở Trung ương gồm 19 bộ, cơ quan ngang bộ (trừ Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và Văn phòng Chính phủ). Trong đó, 02 cơ quan đặc thù là Ủy ban Dân tộc và Thanh tra Chính phủ có thực hiện đánh giá nhưng không xếp hạng chung với 17 bộ, cơ quan ngang bộ còn lại; Ở địa phương gồm 63 UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Theo Báo cáo kết quả PAR INDEX 2020, kết quả Chỉ số CCHC năm 2020 các bộ, cơ quan ngang bộ tiếp tục tập trung vào 2 nhóm điểm. Nhóm thứ nhất, đạt kết quả Chỉ số CCHC trên 90%, tiếp tục là 3 đơn vị: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Bộ Tài chính; Bộ Tư pháp. Nhóm thứ hai, đạt kết quả Chỉ số CCHC từ trên 80% đến dưới 90%, gồm 14 đơn vị: Bộ Ngoại giao; Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ Nội vụ; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; Bộ Xây dựng; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Thông tin và Truyền thông; Bộ Giao thông vận tải; Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Công Thương; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bộ Khoa học và Công nghệ; Bộ Y tế và Bộ Giáo dục và Đào tạo. Không có đơn vị nào có Chỉ số CCHC dưới 80%.
Chỉ số CCHC năm 2020 của 17 bộ, cơ quan ngang bộ đạt giá trị trung bình cao nhất trong 9 năm triển khai xác định, đạt 87,56%, tăng 1,93% so với năm 2019 (chỉ đạt 85,63%), đồng thời tăng 12,18% so với năm 2012, năm đầu tiên sử dụng công cụ Chỉ số để đánh giá CCHC của các bộ, các tỉnh (chỉ đạt 75,38%).
15/17 bộ đạt Chỉ số CCHC tăng cao hơn so với năm 2019, trong số đó tăng nhiều nhất là Bộ Giao thông vận tải (+5,40%); 2 bộ có kết quả Chỉ số CCHC giảm là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (-2,19%), Bộ Giáo dục và Đào tạo (-1%).
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đạt Chỉ số CCHC năm 2020 cao nhất ở năm thứ 6 liên tiếp với kết quả là 95,88%. Đây cũng là năm thứ 3, chỉ số CCHC của NHNN tăng liên tiếp từ 90,57% năm 2018 lên 95,40% năm 2019 và đạt 95,88% trong năm 2020.
Khoảng cách giữa đơn vị đứng đầu là NHNN với giá trị 95,88% và đơn vị có kết quả Chỉ số CCHC thấp nhất - Bộ Giáo dục và Đào tạo với giá trị 83,24% tiếp tục được rút ngắn về 12,64% (trong khi khoảng cách này năm 2019 là 14,87%, năm 2018 là 15,44% và năm 2017 là 20,23%). Khoảng cách giữa giá trị chỉ số của NHNN so trung bình của các cơ quan bộ, ngang bộ thu hẹp về 8,32%, trong khi năm 2019 là 9,77%.
So với năm 2019, có 5/7 chỉ số thành phần PAR INDEX 2020 của 17 bộ, cơ quan ngang bộ có giá trị trung bình tăng. Trong đó Chỉ số thành phần “Công tác chỉ đạo, điều hành CCHC” tăng 0,43% lên 95,14%. Chỉ số thành phần “Hiện đại hóa hành chính” tăng 0,9% lên 90,54%.
Chỉ số thành phần “Cải cách tài chính công” có giá trị trung bình tăng cao nhất với giá trị tăng là 7,63%, lên 87,96% năm 2020. Chỉ số thành phần “Cải cách thủ tục hành chính” có giá trị tăng cao thứ hai thêm 5,03%, đạt giá trị 89,72%. Đây cũng là năm thứ hai đánh giá việc thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông và 17/17 bộ đạt tỷ lệ 100% điểm số tại tiêu chí này.
Đáng chú ý có 2/7 chỉ số thành phần có giá trị trung bình giảm so với năm 2019. Trong đó, Chỉ số thành phần “Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước” giảm 1,80%, từ 84,38% của năm 2019 xuống còn 82,58% năm 2020. Tương tự, Chỉ số thành phần “Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức” giảm 0,25% xuống còn 89,51%.
Về kết quả Chỉ số CCHC 2020 của các tỉnh, thành phố được phân theo 3 nhóm: Nhóm A, đạt kết quả Chỉ số từ 90% trở lên gồm 2 tỉnh, thành phố (Quảng Ninh, Hải Phòng); Nhóm B, đạt kết quả Chỉ số từ 80% - dưới 90% gồm 56 tỉnh, thành phố; Nhóm C, đạt kết quả Chỉ số từ 70% - dưới 80%, gồm 5 tỉnh, thành phố.
Theo đánh giá, Chỉ số CCHC 2020 của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có kết quả đạt giá trị trung bình là 83,72%, cao hơn 2,57% so với giá trị trung bình năm 2019 (đạt 81,15%) và đạt giá trị cao nhất trong 5 năm gần đây.
So sánh kết quả của 63 địa phương cho thấy, có 38 đơn vị đạt Chỉ số CCHC cao hơn giá trị trung bình của cả nước. Đáng chú ý, năm 2020 có 58 địa phương đạt Chỉ số CCHC trên 80%, trong khi đó, năm 2019 chỉ có 44 đơn vị và năm 2018 chỉ có 9 đơn vị thuộc nhóm này; không có địa phương nào đạt kết quả dưới 70%.
Có 58 tỉnh, thành phố có kết quả Chỉ số tăng cao hơn so với năm 2019. Địa phương tăng điểm cao nhất là Bến Tre (+9,42%), tăng thấp nhất là Thái Bình (+0,7%). Vẫn còn 5 địa phương có kết quả Chỉ số CCHC giảm so với năm 2019 là Phú Yên, Quảng Ngãi, Ninh Thuận, Bắc Kạn, Kiên Giang, trong đó, đơn vị giảm nhiều nhất là Phú Yên (-3,94%).
Về kết quả xếp hạng Chỉ số CCHC 2020, Quảng Ninh tiếp tục là địa phương xếp vị trí thứ nhất bảng xếp hạng Chỉ số CCHC năm 2020 với kết quả đạt 91,04%. Đây là năm thứ 4 liên tiếp Quảng Ninh đạt ngôi vị đầu bảng về Chỉ số CCHC của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Hải Phòng đã vượt Hà Nội, xếp vị trí thứ hai đạt 90,51%. Tỉnh Quảng Ngãi là địa phương đứng cuối bảng xếp hạng Chỉ số CCHC năm 2020, với kết quả đạt 73,25%.
So sánh giá trị trung bình Chỉ số CCHC giữa các vùng kinh tế, trong năm 2020, cả 6 vùng kinh tế đều có giá trị trung bình Chỉ số CCHC tăng cao hơn so với năm 2019 và đều đạt giá trị trên 80%. Giá trị trung bình cao nhất là vùng kinh tế Đông Nam Bộ với kết quả đạt 85,88%; tiếp theo là khu vực Đồng bằng sông Hồng, đạt 85,51%. Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung là vùng kinh tế đạt giá trị thấp nhất, với kết quả là 81,41%.
So sánh sự tăng trưởng giữa các vùng kinh tế thì Đông Nam Bộ cũng là vùng có sự tăng trưởng cao nhất trong năm 2020, giá trị trung bình cao hơn 3,86% so với năm 2019. Khu vực Tây Nguyên đã có sự tăng trưởng đáng kể, giá trị trung bình khu vực này đạt 82,20%, cao hơn 2,57% so với năm 2019 nhờ sự bứt phá cả về điểm số và thứ hạng của các địa phương thuộc khu vực này. Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung có giá trị tăng trưởng thấp nhất so với 5 vùng kinh tế còn lại, chỉ cao hơn 0,63% so với năm 2019.
Phân tích các chỉ số thành phần cho thấy giá trị trung bình của các chỉ số thành phần đều có sự cải thiện đáng kể, với 7/8 chỉ số thành phần đạt giá trị trung bình tăng cao hơn so với năm 2019. Đáng chú ý, năm 2020 có 6/8 chỉ số thành phần đạt giá trị trung bình trên 80%, trong khi đó năm 2019 có 5 chỉ số thành phần và năm 2018 có 3 chỉ số thành phần thuộc nhóm này.
Chỉ số thành phần “Cải cách TTHC” đạt giá trị trung bình xếp thứ nhất, với kết quả là 94,11%. Xếp thứ hai là Chỉ số thành phần “Chỉ đạo điều hành CCHC” đạt 89,71%, cao hơn 6,07% so với năm 2019.
Chỉ số thành phần duy nhất có giá trị trung bình giảm là “Đánh giá tác động của CCHC đến người dân, tổ chức và các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương”, đạt 70,25%, thấp hơn 7,64% so với năm 2019. Đây cũng là chỉ số thành phần có giá trị trung bình thấp nhất trong 8 chỉ số thành phần.
Có thể thấy, việc công bố kết quả các chỉ số PAR INDEX 2020 và SIPAS 2020 tạo cơ sở thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa CCHC của các bộ, ngành và địa phương trong thời gian tới. Các nghiên cứu đánh giá cho thấy, trong 9 năm vừa qua (từ năm 2012 đến nay), Chỉ số CCHC luôn được khẳng định qua thực tiễn là một trong những công cụ có ý nghĩa quan trọng trong chỉ đạo, điều hành triển khai Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020. Thông qua Chỉ số CCHC, Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương xác định được mục tiêu, định hướng, nội dung, nhiệm vụ và giải pháp cho CCHC nhà nước giai đoạn tiếp theo, đồng thời đây cũng là công cụ có sự tác động nhất định, tạo ra áp lực đối với các cơ quan quản lý để tạo ra sự thay đổi và cải cách. Tuy nhiên, qua xác định Chỉ số CCHC năm 2020, Báo cáo kết quả PAR INDEX 2020 và SIPAS 2020 cũng đã chỉ ra một số tồn tại, hạn chế trong công tác CCHC của các bộ, các tỉnh cần khắc phục như: Công tác cải cách thể chế của các bộ còn một số hạn chế, bất cập, tiếp tục có giá trị trung bình thấp nhất trong 7 lĩnh vực đánh giá; năm 2020 còn một số bộ chưa hoàn thành chương trình xây dựng pháp luật đã được phê duyệt.
Cổng dịch vụ công của một số bộ chưa đáp ứng yêu cầu về chức năng kỹ thuật theo quy định. Sắp xếp, kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các đơn vị trực thuộc; ban hành văn bản hướng dẫn về vị trí việc làm và định mức biên chế công chức theo quy định; ban hành văn bản để hoàn thiện quy định về vị trí việc làm của cơ quan, tổ chức thuộc phạm vi quản lý chưa đạt yêu cầu.
Một số địa phương xây dựng, ban hành Kế hoạch CCHC năm chưa sát với thực tiễn, đặt mục tiêu, nhiệm vụ quá cao, không bố trí đủ nguồn lực để thực hiện dẫn đến vẫn còn những mục tiêu, nhiệm vụ không hoàn thành hoặc thực hiện còn hình thức, chưa đáp ứng yêu cầu đề ra; công tác kiểm tra đã có nhiều đổi mới tích cực, nhưng vẫn còn một số địa phương thực hiện chưa đạt hiệu quả cao, chưa xử lý dứt điểm các tồn tại, hạn chế phát hiện qua kiểm tra CCHC.
Về cải cách thể chế, tình trạng chậm xử lý các văn bản trái pháp luật vẫn còn chậm trễ ở một số địa phương; qua khảo sát cho thấy, tính khả thi và tính kịp thời trong xử lý vướng mắc, bất cập khi tổ chức triển khai các văn bản pháp luật vẫn là những vấn đề có tỷ lệ điểm đánh giá khá thấp so với các nội dung khác.
Tình trạng trễ hẹn trong giải quyết hồ sơ vẫn còn tồn tại ở cả 3 cấp chính quyền tại hầu hết các địa phương và kéo dài trong nhiều năm, nhất là các lĩnh vực về đất đai, xây dựng, chính sách người có công,...
Nhiều địa phương không hoàn thành giải ngân kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước; tình trạng sai phạm trong quản lý, sử dụng tài chính ngân sách vẫn còn xảy ra ở một số nơi, đã được cơ quan có thẩm quyền kết luận và kiến nghị xử lý; việc thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp còn nhiều vướng mắc, kết quả đạt được còn chậm so với tiến độ đề ra.
Kết quả thực hiện cung cấp dịch vụ công trực tuyến còn ở mức khiêm tốn; tỷ lệ thủ tục hành chính có phát sinh hồ sơ trực tuyến, đạt tỷ lệ 34,20%; tỷ lệ số hồ sơ được xử lý trực tuyến mức độ 3 và 4 đạt bình quân 23,03% so với tổng số hồ sơ đã tiếp nhận (cả trực tiếp và trực tuyến) của các thủ tục hành chính thuộc phạm vi đánh giá.
Thời gian tới, để nâng cao kết quả cải cách hành chính các bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục có những giải pháp mới mang tính đột phá phù hợp để cải thiện, nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ hành chính công. Tổ chức thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030 một cách toàn diện, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả, lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo đánh giá chất lượng hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước.
Các cấp, các ngành, các địa phương cần tiếp tục đẩy mạnh rà soát, cắt giảm thời gian giải quyết TTHC cho người dân và doanh nghiệp, khơi thông nguồn lực kinh tế. Các cơ quan hành chính Nhà nước tiếp tục tăng cường áp dụng một cửa điện tử, hệ thống văn bản quản lý, điều hành… góp phần xây dựng Chính phủ điện tử; đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào công tác CCHC, tập trung ưu tiên nguồn lực xây dựng Chính phủ điện tử... Các bộ, ngành, địa phương cần triển khai xây dựng thực hiện tốt các biện pháp CCHC, tạo tiền đề sức mạnh trong giai đoạn tới./.
TS. Phạm Thị Ninh - TS. Phạm Thị Tuyết Nhung
Đại học Lao động - Xã hội