Đánh giá đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng kinh tế tỉnh Thái Bình giai đoạn 2021-2025

24/06/2025 - 04:55 PM
Tóm tắt:

Tốc độ tăng năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) là chỉ tiêu quan trọng phản ánh hiệu quả và phát triển bền vững của nền kinh tế. Thông qua phương pháp hạch toán tăng trưởng và dựa trên nguồn số liệu thống kê để đánh giá tác động của TFP vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh Thái Bình giai đoạn 2021-2025 cho thấy rằng, TFP có sự gia tăng đáng kể với tốc độ tăng bình quân 4,48%/năm; TFP có vai trò đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh, với mức đóng góp 53,70% và đang có xu hướng gia tăng. Với tính chất là năng suất các nhân tố tổng hợp, TFP chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố: Chất lượng lao động, tái cơ cấu kinh tế, hiệu quả đầu tư vốn, tiến bộ công nghệ và tăng cầu tiêu dùng... Các kết quả đánh giá thực trạng TFP và phân tích các yếu tố tác động tới TFP của tỉnh Thái Bình giai đoạn 2021-2025 được sử dụng làm cơ sở để đề xuất các giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế của Tỉnh trong thời gian tới.


Đặt vấn đề

Yêu cầu phát triển bền vững đòi hỏi phải sử dụng hợp lý và có hiệu quả hai nguồn lực chủ yếu là vốn và lao động thông qua đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến, đổi mới phương thức quản lý sản xuất, nâng cao chất lượng lao động, chính là các yếu tố tác động để tăng TFP. Vì vậy, việc đánh giá thực trạng TFP và vai trò của tăng TFP vào tăng trưởng kinh tế và phân tích các yếu tố tác động tới TFP của tỉnh Thái Bình là cần thiết nhằm đưa ra được các giải pháp nâng cao năng suất và phát triển kinh tế bền vững.  

Phương pháp nghiên cứu

Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) phản ánh hiệu quả sử dụng kết hợp lao động và đầu vào vốn được sử dụng trong quá trình sản xuất. Robert Solow và Trevor Swan (1956) [1] phát triển “Mô hình tân cổ điển” để giải thích các yếu tố vào tăng trưởng Y= A. Kα . Lβ ;

Trong đó, Y là tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của một nền kinh tế,  K là vốn, L là lao động, A là “năng suất nhân tố tổng hợp” đại diện cho tiến bộ công nghệ làm cơ sở để phân tích, tính toán và đánh giá tốc độ tăng và tỷ phần đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP, số mũ α, β là hệ số co dãn của vốn (K) và lao động (L). Tăng hoặc A, K hoặc L sẽ dẫn đến sự gia tăng đầu ra GDP. Tác động tăng trưởng kinh tế bởi 3 yếu tố, đó là tăng vốn, tăng lao động và tăng TFP. Robert Solow sử dụng hàm sản xuất Cobb-Douglas để tính tăng trưởng TFP theo cách hiểu TFP là phần còn lại (số dư) sau khi đã trừ đi phần đóng góp của vốn và lao động, cách tiếp cận này được gọi là cách tiếp cận hạch toán tăng trưởng.


Để tính toán tốc độ tăng TFP, có một số cách tiếp cận khác nhau, như: Phương pháp phi tham số (gồm phương pháp bao dữ liệu và phương pháp chỉ số); phương pháp kinh tế lượng (phương pháp ước lượng OLS từ hàm sản xuất Cobb-Douglass; phương pháp bán tham số và phương pháp hàm sản xuất biên ngẫu nhiên). Vì tính chất phổ biến của cách tiếp cận hạch toán tăng trưởng khi đánh giá đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế của các nền kinh tế và để phù hợp với cách lựa chọn phương pháp tính toán của Tổng cục Thống kê khi so sánh với toàn quốc, cách tiếp cận hạch toán tăng trưởng được lựa chọn sử dụng khi tính TFP của địa phương. Trong nghiên cứu này, phương pháp hạch toán tăng trưởng được sử dụng để tính toán tốc độ tăng TFP và đóng góp của tăng TFP vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh Thái Bình từ nguồn dữ liệu thống kê đã được tổng hợp. Phương pháp tính toán được thể hiện qua công thức sau:


  Đánh giá đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng kinh tế tỉnh Thái Bình giai đoạn 2021-2025 6

Dữ liệu và xử lý dữ liệu

Khi tính toán tốc độ tăng TFP của tỉnh/thành phố (dựa trên công thức (1) cần dựa trên cơ sở dữ liệu gồm: chỉ tiêu đầu ra là tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) theo giá so sánh (giá 2010) và các chỉ tiêu đầu vào là lao động làm việc bình quân năm và vốn cố định bình quân năm (theo giá so sánh 2010).

Chỉ tiêu GRDP theo giá so sánh và chỉ tiêu lao động bình quân năm đã được Cục Thống kê tính toán, tổng hợp và công bố trên Niên giám Thống kê hàng năm [2].

Số liệu để tính quy mô vốn không có sẵn và cũng không thể tổng hợp trực tiếp từ các đơn vị, các ngành để được con số tổng cộng chung toàn nền kinh tế, tuy nhiên, có thể khai thác, xử lý từ nguồn số liệu thống kê theo phương pháp sau:

Theo OECD (2001) [3], vốn phục vụ sản xuất (capital service) là thước đo thích hợp để phân tích năng suất. Do vốn phục vụ sản xuất thường không quan sát được trực tiếp, nên được ước tính bằng cách giả định rằng vốn phục vụ sản xuất tương ứng với một tỷ lệ trong quy mô vốn (capital stock) được chuyển vào phục vụ sản xuất theo từng năm.

Đánh giá đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng kinh tế tỉnh Thái Bình giai đoạn 2021-2025 7

Theo công thức (2), số liệu cần có gồm: (i) dữ liệu về đầu tư (hoặc tích lũy tài sản) theo chuỗi thời gian, (ii) lượng vốn ban đầu tại thời điểm khi bắt đầu chuỗi thời gian và (iii) tỷ lệ khấu hao hàng năm.

Số liệu về đầu tư hàng năm có được từ nguồn số liệu của Cục Thống kê; số liệu về lượng vốn ban đầu không có trong số liệu thống kê nhưng có thể ước lượng bằng phương pháp kiểm kê thường xuyên (PIM - Perpetual Inventory Method). Ý tưởng của PIM là giải thích trữ lượng vốn của nền kinh tế như một lượng tồn kho. Trữ lượng tồn kho tăng cùng với tích lũy vốn (hoặc đầu tư vốn). Lượng vốn phục vụ tối đa là ngay sau khi đầu tư và giảm dần theo thời gian, lượng giảm mỗi kỳ theo tỷ lệ khấu khao. Cụ thể, với giả thiết khấu hao tài sản cố định hàng năm là 5%, để có trữ lượng vốn ban đầu vào năm 2014, thì cần có số liệu về đầu tư vốn cố định từ 1997, sau đó cộng tích lũy giá trị còn lại đến 2014 của từng năm từ 1997 đến 2014.

Phần thuộc về chi phí lao động (Lw) là: Thu nhập của lao động (đối với lao động làm công ăn lương) và thu nhập của lao động trong thu nhập hỗn hợp (đối với lao động tự doanh).

Phần thuộc về chi phí vốn là (Kr) là: thặng dư hoạt động, thu nhập từ vốn trong thu nhập hỗn hợp, thuế mua tài sản, thuế tài sản, khấu hao.

Như vậy, có thể tính WL (hoặc β) bằng cách tính tỷ trọng của chi phí lao động trong giá trị gia tăng (WL ) = Thu nhập của Lao động/Giá trị gia tăng.

Hệ số β có thể có thể tính được dựa trên số liệu từ Bảng I/O năm 2007, 2012 và 2016 của Tổng cục Thống kê, trong đó có số liệu về thu của người lao động và Giá trị gia tăng giá cơ bản. Sử dụng bảng I/O tính được hệ số β cho từng ngành. Khi tính toán ở giai đoạn 2016-2023 có thể lấy số liệu của năm 2016 làm chuẩn để quy đổi cho những năm khác. Khi áp dụng tính ở địa phương cần điều chỉnh theo cơ cấu kinh tế để ước lượng hệ số đóng góp của lao động.

Thực trạng tốc độ tăng TFP và đóng góp của tăng TFP vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh Thái Bình 2021-2025

Dựa trên các số liệu thống kê thu thập được về GRDP, vốn đầu tư, lao động và tỷ trọng thu nhập của lao động trong giá trị tăng thêm, thông qua quá trình xử lý số liệu, kết quả tốc độ tăng TFP và đóng góp của tăng TFP vào tăng GRDP của tỉnh Thái Bình 2021-2025 như sau:
 
 Bảng 1: Kết quả tăng TFP và đóng góp của tăng TFP vào GRDP
của tỉnh Thái Bình 2021-2025
Đánh giá đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng kinh tế tỉnh Thái Bình giai đoạn 2021-2025

Trên cơ sở số liệu các đóng góp của tăng vốn, tăng lao động và tăng TFP vào tăng GRDP, tính được tỷ phần đóng góp của tăng các yếu tố vào tăng GRDP của tỉnh Thái Bình như Bảng 2:
 
Bảng 2: Tính tốc độ tăng TFP tỉnh Thái Bình 2016-2025
Đánh giá đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng kinh tế tỉnh Thái Bình giai đoạn 2021-2025 1


Bảng 3: Tính đóng góp của các yếu tố vào tăng GRDP 2021-2024
Đánh giá đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng kinh tế tỉnh Thái Bình giai đoạn 2021-2025 2

Trên đây là kết quả tính toán tốc độ tăng TFP cũng như tỷ phần đóng góp của tăng TFP, tăng TSCĐ, tăng lao động vào tăng trưởng GRDP của Thái Bình qua các năm từ 2016 đến 2025, cũng như bình quân năm của giai đoạn 2016-2020 và 2021-2023 và 2021-2025. Số liệu trên cho thấy, xu hướng và mức đóng góp của mỗi nhân tố vào kết quả tăng GRDP, đó là cơ sở cho việc nhận định đánh giá sâu về chất lượng tăng trưởng cũng như xu thế phát triển kinh tế của tỉnh Thái Bình những năm qua.

Các nhận xét từ kết quả tăng TFP của tỉnh Thái BÌnh 2021-2025:

- Tăng trưởng kinh tế tích cực và có chiều sâu: GRDP tăng bình quân 8,36%/năm duy trì mức tăng khá cao sau đại dịch. So với giai đoạn 2016-2020, tăng trưởng giữ được động lực và ổn định hơn, dù trong bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều biến động.

- Vai trò chủ đạo của TFP trong tăng trưởng: TFP tăng bình quân 4,49%/năm - cao hơn giai đoạn trước (3,03%/năm). Đóng góp của TFP vào tăng trưởng GRDP đạt 53,7% - vượt mục tiêu của Trung ương (45%) và cao hơn bình quân toàn quốc (46,2%), cho thấy Thái Bình chuyển dịch sang mô hình tăng trưởng dựa vào hiệu quả, đổi mới công nghệ, tái cơ cấu kinh tế.

- Tăng trưởng ít phụ thuộc hơn vào tăng vốn: Đóng góp của vốn vào GRDP giảm còn 41,9%, so với 61,7% ở giai đoạn 2016-2020. Mặc dù đầu tư vẫn tăng, nhưng tăng trưởng dựa vào chất lượng vốn và hiệu quả sử dụng vốn hơn là số lượng vốn.

+ Đóng góp của lao động cải thiện nhẹ nhưng vẫn thấp: Lao động tăng trung bình 0,61%/năm, đóng góp vào GRDP khoảng 4,39% - cải thiện so với trước (2%) nhưng vẫn rất hạn chế cho thấy giới hạn về tăng lao động làm việc ở địa phương.

Đây là kết quả tương đối khá và phù hợp với xu thế của một số tỉnh thành phố khác. So với một số tỉnh như Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hòa Bình, tốc độ tăng TFP của tỉnh Thái Bình cao hơn và đóng góp cao hơn vào tăng GRDP trong thời gian qua.

Cũng theo số liệu tính toán ở Bảng 3 cho thấy, tốc độ tăng TFP từ 2016 đến 2025 luôn đạt giá trị dương, ngoại trừ năm 2020, như vậy, nếu ngoại trừ năm 2020, tăng TFP luôn đóng góp làm tăng trưởng. Tương quan so sánh với đóng góp của các nhân tố tăng TSCĐ và tăng lao động cụ thể như sau:

- Năm 2016, GRDP tăng nhanh, TFP tăng cao vào đóng góp cao vào tăng GRDP.

- Năm 2017, GRDP tiếp tục tăng nhanh và TFP tăng cao, đóng góp cao vào tăng trưởng GRDP.

- Năm 2018, GRDP và TFP tiếp tục tăng cao, TFP tiếp tục đóng góp đáng kể vào tăng GRDP.

- Năm 2019, GRDP mặc dù tăng chậm hơn năm 2017, 2018 nhưng vẫn có tốc độ tăng cao, TFP tiếp tục tăng nhanh và đóng góp cao vào tăng GRDP.

- Năm 2020, do tác động của đại dịch Covid-19, tốc độ tăng GRDP chỉ đạt 1,79%, TFP giảm và đóng góp làm giảm GRDP.

- Năm 2021, sự phục hồi đáng kể sau đại dịch và tốc độ tăng đạt được 7,57%, lao động tiếp tục giảm, vốn đầu tư cũng đã giảm hơn năm trước. Khi đó, TFP tăng đáng kể và đóng góp chính vào tăng GRDP.

- Năm 2022, tăng trưởng kinh tế tiếp tục được phục hồi, tốc độ tăng TFP đạt được 9,26%, vốn và lao động tiếp tục gia tăng. TFP cải thiện đáng kể và tiếp tục đóng góp chính vào tăng GRDP.

- Năm 2023, tiếp tục tăng trưởng tốt, tuy nhiên, tốc độ tăng đã chậm hơn trước. TFP gia tăng nhưng chậm hơn những năm trước, nhưng vẫn có vai trò đáng góp cao vào tăng GRDP.

- Năm 2024, tương tự như năm 2023, GRDP tăng trưởng chậm lại, nhưng vẫn duy trì được tốc độ tăng khá cao. TFP cũng tăng chậm lại, nhưng vẫn có đóng góp đáng kể vào tăng GRDP.

Ước tính năm 2025, GRDP có sự gia tăng mạnh và TFP tăng cao, đóng vai trò chủ đạo trong tăng GRDP.

 
Hình 1. Tỷ phần đóng góp của các nhân tố vào tăng trưởng GRDP
toàn nền kinh tế của tỉnh Thái Bình từ 2016 đến 2025
Đánh giá đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng kinh tế tỉnh Thái Bình giai đoạn 2021-2025 3

Nhìn chung, xét quan hệ đóng góp của các nhân tố vào tăng trưởng GRDP toàn nền kinh tế của tỉnh Thái Bình từ 2016 đến 2025, tỷ phần đóng góp của tăng vốn và TFP có vai trò tương đương, còn đóng góp của tăng lao động vào tăng GRDP là khá thấp và có những năm làm giảm lao động nên đã làm giảm tốc độ tăng GRDP.

Giai đoạn 2021-2025, kinh tế Thái Bình tăng trưởng tích cực, bền vững và có chiều sâu hơn giai đoạn trước. Việc chuyển dịch mô hình tăng trưởng từ phụ thuộc vốn sang dựa vào năng suất và đổi mới là điểm sáng nổi bật.
ThS. Tăng Bá Phúc
Chi cục Thống kê tỉnh Thái Bình

Tài liệu tham khảo

[1] Robert Solow (1956), ‘A Contribution to the theory of economic growth’, Quarterly Journal of Economics, 70 (February): 65–94.

[2] Cục Thống kê tỉnh Thái Bình (2023), Niên giám thống kê 2023.

[3] OECD (2001), Measuring Productivity OECD Manual, Measurement of Aggregate and Industry – Level Productivity Growth, OECD Publications.

[4] Viện Năng suất Việt Nam, Báo cáo Năng suất Việt Nam 2023.

[5] Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) 2023.

Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top