Năm 2024, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến khó lường, cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt, xung đột chính trị, quân sự tiếp tục leo thang; kinh tế, thương mại thế giới phục hồi chậm, thiếu vững chắc và không đồng đều. Trong nước, với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và giữ vững mục tiêu tăng trưởng, dưới sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Bộ, ngành, địa phương, hoạt động sản xuất công nghiệp năm 2024 có bước phát triển vượt bậc, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) năm 2024 tăng 8,4% so với năm trước, đạt mức tăng trưởng cao nhất trong 5 năm qua.
Sản xuất công nghiệp năm 2024 duy trì tăng trưởng ổn định
Nối tiếp đà phục hồi từ cuối năm 2023, sản xuất công nghiệp các tháng trong năm 2024 vẫn duy trì tăng trưởng ổn định. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của cơn bão số 3 (Yagi) trong tháng 9/2024 đã ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp. Do vậy, sản xuất công nghiệp có xu hướng tăng chậm lại vào các tháng cuối năm, cụ thể: Quý I/2024 tăng 5,9%; quý II/2024 tăng 9,9%; quý III/2024 tăng 9,3% và ước quý IV/2024 tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước.
Xét theo ngành công nghiệp cấp I, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (ngành chiếm trên 74% giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp) tăng 9,6% so với năm trước, đóng góp 8,35 điểm phần trăm vào mức tăng chung của toàn ngành; ngành khai khoáng giảm 6,5%, làm giảm 1,02 điểm phần trăm; ngành sản xuất, phân phối điện tăng 9,5%, đóng góp 0,84 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý nước thải, rác thải tăng 10,7%, đóng góp 0,17 điểm phần trăm.
Trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, chỉ số tiêu thụ năm 2024 tăng 11,3% so với năm trước, chỉ số tồn kho tại thời điểm 31/12/2024 ước tăng 10,6% so cùng thời điểm năm trước, tỷ lệ tồn kho bình quân năm 2024 là 77,1%.
Các yếu tố tích cực tạo nên điểm sáng trong bức tranh sản xuất công nghiệp năm 2024
Thứ nhất, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp năm 2024 tăng 8,4%, trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,6% so với năm trước, là mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2020-2024 kể từ khi dịch Covid-19 bùng phát.
Thứ hai, chỉ số sản xuất của 30/33 ngành công nghiệp cấp 2 tăng so với năm trước, trong đó, nhiều ngành có chỉ số sản xuất tăng cao trên 10%, gồm: Sản xuất sản phẩm từ cao su, plastic tăng 24,9%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 23,8%; sản xuất xe có động cơ tăng 21,1%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải tăng 18,8%; khai thác quặng kim loại tăng 14,4%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 13,7%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 12,6%; dệt tăng 12,1%; sản xuất hóa chất, sản phẩm hóa chất và sản xuất thiết bị điện cùng tăng 11,9%; sản xuất trang phục tăng 11,7%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 10,8%; in, sao chép bản ghi tăng 10,5%.
Hình 2: Tốc độ tăng/giảm IIP các ngành công nghiệp cấp 2 năm 2024
so năm trước (%)
Bên cạnh đó, sản lượng sản xuất của một số sản phẩm công nghiệp tăng cao trên 10% so với năm trước, gồm: Ô tô tăng 27%; thép thanh, thép góc tăng 18,7%; tivi các loại tăng 18,6%; đường kính và vải dệt từ sợi tự nhiên cùng tăng 16,7%; xăng, dầu các loại tăng 14%; thép cán tăng 13,8%; phân hỗn hợp NPK tăng 11%; sữa bột tăng 10,9%; thủy hải sản chế biến tăng 10,4%...
Thứ ba, sản lượng tiêu thụ một số ngành tăng cao, tạo điều kiện kích thích sản xuất phát triển. Cụ thể, chỉ số tiêu thụ sản phẩm năm 2024 các ngành tăng cao gồm: sản xuất thiết bị điện tăng 39,8%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 24,8%; sản xuất xe có động cơ tăng 21,3%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 20,5%; sản xuất máy móc thiết bị chưa được phân vào đâu và in, sao chép bản ghi các loại cùng tăng 18,7%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 15,1%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 14,6%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 13,1%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính tăng 12,2%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 12,1%.
Thứ tư, có 60/63 tỉnh, thành phố trong cả nước có chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2024 tăng so với năm 2023. Một số tỉnh, thành phố tăng cao do điện sản xuất tăng cao gồm: Trà Vinh, Khánh Hòa, Thái Bình, Lai Châu, Sơn La, Điện Biên, Cao Bằng, Hòa Bình, Hà Giang. Một số tỉnh, thành phố tăng cao do sản xuất chế biến, chế tạo tăng cao gồm: Phú Thọ, Bắc Giang, Thanh Hóa, Bình Phước, Quảng Nam, Hà Nam, Hải Phòng, Nam Định, Hải Dương, Tây Ninh, Vĩnh Long, Kiên Giang.
Thứ năm, sản lượng tiêu thụ tăng cao hơn sản lượng sản xuất dẫn đến sản lượng tồn kho có xu hướng giảm. Cụ thể, trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, chỉ số sản xuất năm 2024 tăng 9,6% trong khi chỉ số tiêu thụ tăng 11,3% (mức tăng chỉ số tiêu thụ cao hơn 1,7 điểm phần trăm so với chỉ số sản xuất), chỉ số tồn kho thời điểm 31/12/2024 ước tăng 10,6% so với cùng thời điểm năm trước, thấp hơn nhiều so với chỉ số tồn kho cùng thời điểm năm 2023 (tăng 19,8%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân năm 2024 là 77,1%, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ này năm 2023 là 88%.
Sản xuất công nghiệp năm 2024 có một số khó khăn
Một là, sản xuất công nghiệp năm 2024 tăng trưởng cao trên nền năm 2023 tăng trưởng thấp (năm 2023 tăng 1,3% so với cùng kỳ), tốc độ tăng trưởng những tháng cuối năm 2024 (quý IV/2024) không được như kỳ vọng với xu hướng tăng trưởng chậm lại do các tháng cuối năm 2023 hoạt động sản xuất công nghiệp đã tăng trưởng trở lại.
Hai là, chỉ số sản xuất của 03/33 ngành công nghiệp cấp 2 giảm so với năm trước, gồm: Khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 10,9%; khai thác than giảm 5,5%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc thiết bị giảm 5,1%. Sản lượng sản xuất một số sản phẩm công nghiệp giảm so với năm trước gồm: khí đốt thiên nhiên giảm 15,4%; khí hóa lỏng LPG giảm 12,5%; dầu thô khai thác giảm 5,8%; than sạch giảm 5,6%; điện thoại di động giảm 4,2%; bia các loại giảm 1%; alumin giảm 0,9%.
Một số ngành có chỉ số tiêu thụ năm 2024 giảm hoặc tăng thấp so với cùng kỳ năm 2023, gồm: Sản xuất đồ uống giảm 0,2%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng 1,1%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 1,7%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao hơn mức tăng chung, gồm: Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 151,1%; sản xuất thiết bị điện tăng 33,9%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 33,8%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính tăng 29,6%; sản xuất kim loại tăng 25,6%; sản xuất đồ uống tăng 23,7%.
Ba là, vẫn còn 03/63 tỉnh có chỉ số sản xuất công nghiệp giảm do các ngành sản xuất chủ lực tại các địa phương này sụt giảm, cụ thể: Gia Lai giảm 3,2% chủ yếu do điện sản xuất giảm; Quảng Ngãi giảm 1,8% chủ yếu do sản xuất xăng, dầu giảm; Hà Tĩnh giảm 1% chủ yếu do sản xuất kim loại giảm. Bên cạnh đó, một số địa phương là trung tâm công nghiệp lớn của cả nước sản xuất công nghiệp tăng chậm, cụ thể: Hà Nội tăng 5,9%; Bắc Ninh tăng 5,8%; Bà Rịa-Vũng Tàu tăng 2,5%.
Các yếu tố đem lại kết quả tăng trưởng tích cực trong năm 2024
Thứ nhất, sự chỉ đạo, điều hành linh hoạt, có hiệu quả của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, nhiều chính sách của Chính phủ ban hành kịp thời giúp tháo gỡ một phần các khó khăn cho doanh nghiệp như: Nghị định 109/NĐ-CP của Chính phủ về việc tiếp tục giảm 50% lệ phí trước bạ cho ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước có hiệu lực từ 1/9/2024 đến 30/11/2024 đã có tác động tích cực, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất ô tô trong nước tăng khối lượng sản xuất trong quý IV/2024 và cả năm 2024.
Thứ hai, các hoạt động xúc tiến đầu tư, quảng bá, tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong cả năm 2024 liên tục được thực hiện. Bên cạnh đó, Việt Nam đã tận dụng tốt các lợi thế từ quốc tế mang lại như: Sự gia tăng đơn hàng dệt, may do xung đột tại Bangladesh, việc tiên phong trong sản xuất ô tô chạy bằng pin... đã tạo cơ hội cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, kim ngạch xuất khẩu tăng cao. Các ngành hàng hướng đến xuất khẩu đều tăng trưởng cao như: Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế; dệt, may; da giầy; sản xuất xe có động cơ; sản xuất thiết bị điện...
Thứ ba, sự vào cuộc chủ động, quyết liệt của địa phương: Các chính quyền địa phương trong năm 2024 đã nỗ lực cải cách thủ tục hành chính, thủ tục đầu tư, từng bước nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng, nhờ vậy kết quả sản xuất công nghiệp tại một số địa phương tăng trưởng cao như: Bắc Giang, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Nghệ An, Bà Rịa-Vũng Tàu (ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng cao, ngành khai khoáng giảm).
Thuận lợi, thách thức đối với sản xuất công nghiệp trong năm 2025
Năm 2025 là năm cuối thực hiện Kế hoạch 5 năm 2021-2025, là năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, hoạt động sản xuất công nghiệp có thể phải đối mặt với một số khó khăn như: Tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường và còn nhiều rủi ro tiềm ẩn. Các rủi ro này có thể có những tác động không tốt tới các nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam. Bên cạnh đó, yêu cầu về sản xuất xanh, sạch và hướng tới phát triển bền vững đòi hỏi các doanh nghiệp phải chủ động đầu tư cho sản xuất, nâng cao tay nghề người lao động để đáp ứng các yêu cầu mới của các đơn hàng quốc tế.
Bên cạnh những khó khăn trên, hoạt động sản xuất công nghiệp cũng có một số thuận lợi, đó là sự đồng hành của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đối với doanh nghiệp. Trong thời gian qua Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã có nhiều chính sách kịp thời tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giúp các doanh nghiệp ổn định và phát triển sản xuất như: tiếp tục giảm thuế VAT 2% cho doanh nghiệp và hộ sản xuất kinh doanh; giảm lãi suất cho vay; từng bước tháo gỡ các nút thắt về khó khăn của thị trường bất động sản, tạo điều kiện thúc đẩy các ngành xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng phát triển; đầu tư công liên tục được đẩy mạnh tạo điều kiện thuận lợi hơn về cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông, góp phần thúc đẩy nhanh hơn lưu thông hàng hóa, làm giảm chi phí logistic cho doanh nghiệp và góp phần thu hút đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh Các hoạt động xúc tiến đầu tư của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương liên tục được thực hiện cả trong và ngoài nước, một số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn thuộc ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được ký kết và mở rộng trong năm 2024 góp phần là động lực tăng trưởng cho sản xuất công nghiệp trong năm 2025.
Bên cạnh đó, xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng của quốc tế trong thời gian gần đây đang tạo cơ hội rất lớn cho Việt Nam. Nếu Việt Nam tận dụng tốt lợi thế này, đồng thời đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh nhanh hơn nữa, đáp ứng sự dịch chuyển chuỗi cung ứng cũng như đảm bảo các yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường quốc tế thì có thể tạo đột phá trong tăng trưởng công nghiệp năm 2025 và các năm tiếp theo./.
Phí Thị Hương Nga
Vụ trưởng Vụ Thống kê Công nghiệp và Xây dựng - TCTK