Để thúc đẩy dòng vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp

06/06/2019 - 04:13 PM
Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp khó tiếp cận vốn
 

Kết quả Tổng điều tra kinh tế năm 2017 của Tổng cục Thống kê cho thấy, năm 2017, cả nước có gần 517,9 nghìn DN đang tồn tại, tăng 51,6% so với năm 2012, trong đó, số DNNVV chiếm tới 98,1% (DN vừa có gần 8,5 nghìn DN, tăng 23,6% so với thời điểm 1/1/2012; DN nhỏ là 114,1 nghìn DN và DN siêu nhỏ là 385,3 nghìn DN). Giai đoạn 2012-2017, bình quân mỗi năm số DNNVV tăng 8,8%, cao hơn mức tăng bình quân của DN lớn là 5,4%. Theo các chuyên gia tài chính, DNNVV khởi nghiệp đang đứng trước cơ hội lớn với sự đồng hành của Chính phủ, sự quan tâm của các nhà đầu tư, định chế tài chính cùng sự hỗ trợ của hệ sinh thái khởi nghiệp dần lớn mạnh. Kết quả khảo sát “Thách thức tăng trưởng của DNNVV” năm 2018 do Hiệp hội Kế toán công chứng Anh quốc (ACCA) công bố cho thấy, có đến 68% DNNVV Việt Nam có tốc độ tăng trưởng hơn 20%. Đây là con số rất ấn tượng, khi chỉ có 39% các DNNVV trên toàn cầu đạt tốc độ tăng trưởng hơn 20% và ở khu vực ASEAN là 44%. Đặc biệt, có tới 20% các DNNVV Việt Nam trong 3 năm qua sở hữu tốc độ tăng trưởng trên 50%.

 
Để thúc đẩy dòng vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp
 
Ảnh minh họa, nguồn Internet

Việc đảm bảo nguồn vốn thường xuyên để hoạt động và phát triển là một trong những vấn đề cốt lõi cần quan tâm của mỗi DNNVV khởi nghiệp. Do đó, ngoài bệ đỡ nguồn vốn từ hệ thống các ngân hàng, các DNNVV khởi nghiệp phải xây dựng mạng lưới nguồn vốn bên ngoài như: Tìm kiếm nguồn vốn từ các quỹ đầu tư, quỹ đầu tư mạo hiểm, thị trường vốn, các định chế tài chính, công ty tài chính. Tuy nhiên, Việt Nam hiện có 70 quỹ đầu tư mạo hiểm nhưng đội ngũ khởi nghiệp chưa thực sự chú ý và tận dụng nguồn lực này. Bên cạnh đó, các thương vụ lớn chủ yếu đến từ các nhà đầu tư nước ngoài, trong khi các nhà đầu tư trong nước vẫn còn khá e dè khi đầu tư vào các DNNVV khởi nghiệp. Vì thế, các DNNVV khởi nghiệp ở Việt Nam gặp khá nhiều khó khăn trong thu hút vốn đầu tư.
 
Về quy mô, các DNNVV có quy mô nhỏ, vốn ít, do đó cũng ít nhận được sự quan tâm của các nhà tài trợ, tổ chức DN, thị trường tài chính hay ngân hàng thương mại; tính hiệu quả trong hoạt động của DN chưa cao, việc thiếu minh bạch thông tin, không có tài sản đảm bảo cũng là những yếu điểm khiến DNNVV khó tiếp cận nguồn tín dụng.
 
Năng lực nội tại của các DNNVV khởi nghiệp hiện nay còn yếu, trong đó các nhà sáng lập DNNVV khởi nghiệp lại chưa tập trung đến tính thực tiễn của mô hình kinh doanh, còn chú trọng quá nhiều đến ý tưởng; thiếu thông tin để tiếp cận được các nguồn hỗ trợ từ Chính phủ. Ngoài ra, do chưa có sự chuẩn bị đầy đủ trong triển khai hoạt động huy động vốn, nên các DNNVV khởi nghiệp chưa thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư và không trình bày được những giá trị và tiềm năng của dự án kinh doanh trong tương lai.

Khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn không chỉ ở chính các DNNVV khởi nghiệp, mà còn ở điểm nghẽn từ ngân hàng. Theo các chuyên gia tài chính, các ngân hàng thương mại hiện nay chưa mạnh dạn thay đổi cho DNNVV khởi nghiệp vay vốn, do e ngại đặc thù của các DN này là không có hoặc có ít tài sản đảm bảo, giá trị của DN chính là giá trị hình thành trong tương lai nên rất khó xác định và độ rủi ro cao. Trong khi để có thể phát triển, các DNNVV khởi nghiệp rất cần nguồn vốn vay ngân hàng để bù đắp sự thiếu hụt vốn trong kinh doanh.

Ngoài ra, phong trào khởi nghiệp đang phát triển mạnh mẽ trong cộng đồng DN Việt Nam nhưng đến nay, Việt Nam chưa hình thành được một hệ sinh thái khởi nghiệp đồng bộ, nhất quán, hoạt động có hiệu quả, bao gồm nhà sáng lập, mạng lưới các nhà đầu tư, các cố vấn, các nhà tư vấn, các nhà cung cấp dịch vụ, kênh huy động vốn… Hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp chủ yếu vẫn chỉ thực hiện qua các chương trình riêng lẻ với các mục tiêu, tiêu chí rất khác nhau, thiếu hoạt động gắn kết, chia sẻ, hỗ trợ giữa các thành phần tham gia hệ sinh thái. Điều này dẫn đến tình trạng DN khởi nghiệp ngại tiếp xúc với cơ quan hỗ trợ và nhà đầu tư.
 
Hoàn thiện hệ thống pháp lý hỗ trợ DNNVV khởi nghiệp
 
Để hoàn thiện hệ thống pháp lý hỗ trợ vốn cho DNNVV khởi nghiệp phát triển, thời gian qua đã có đề án, các quỹ hỗ trợ ra đời. Đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025 (gọi tắt là Đề án 844) là một ví dụ. Đề án ra đời đã thúc đẩy hoàn thiện môi trường pháp lý, nâng cao năng lực cho các chủ thể trong hệ sinh thái. Sau 3 năm nỗ lực triển khai (kể từ năm 2016), Đề án 844 đã tích cực đề xuất, phối hợp với các cơ quan chức năng hình thành những hành lang pháp lý đặc thù đầu tiên cho cả hoạt động khởi nghiệp sáng tạo và hoạt động đầu tư, hỗ trợ cho khởi nghiệp sáng tạo như: Luật Hỗ trợ DNNVV số 04/2017/ QH14 đã quy định nhiều nội dung hỗ trợ các DN vừa và nhỏ khởi nghiệp, sáng tạo (Điều 17, 18) gồm: Hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao công nghệ; hỗ trợ sử dụng trang thiết bị tại cơ sở kỹ thuật; hỗ trợ thực hiện thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, khai thác và phát triển tài sản trí tuệ… Đây là sự hỗ trợ rất cần thiết về cơ chế, chính sách dành cho các DNNVV khởi nghiệp sáng tạo, ứng dụng công nghệ cao vào hoạt động sản xuất, kinh doanh.
 
Luật Khoa học và Công nghệ số 29/2013/QH13 ngày18/6/2013 quy định “DN ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ để đổi mới, nâng ca trình độ công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng, sức mạnh của  sản  phẩm, hàng hóa được quỹ của Nhà nước trong lĩnh vực khoa học và công nghệ tài trợ, cho vay với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất cho vay, bảo lãnh để vay vốn, DN ứng dụng công nghệ cao được hưởng ưu đãi ở mức cao nhất theo quy định của pháp luật về công nghệ cao. DN ứng dụng công nghệ là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ trong nước được hỗ trợ lãi suất vay vốn tại ngân hàng”. Như vậy, các DN khởi nghiệp ứng dụng và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu được vay vốn với lãi suất ưu đãi, được bảo lãnh vay vốn.
 
Bên cạnh đó, các quỹ phát triển khoa học và công nghệ của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và của DN cũng tài trợ, hỗ trợ một phần kinh phí nghiên cứu, thử nghiệm công nghệ, thử nghiệm thị trường, cho vay với lãi suất thấp hoặc không lấy lãi, góp vốn đầu tư vào DN đổi mới sáng tạo. Nghị quyết 35 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển DN đến năm 2020 được ban hành với chỉ đạo trong việc cho vay như: Xây dựng các chương trình vay vốn lãi suất hợp lý, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo dựng môi trường thuận lợi, hỗ trợ DN khởi nghiệp, DN đổi mới sáng tạo.
 
Quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo được hình thành từ vốn góp của các nhà đầu tư tư nhân đầu tư vào DNNVV khởi nghiệp, sáng tạo theo các nguyên tắc: Đầu tư vào DNNVV khởi nghiệp, sáng tạo không quá 50% vốn điều lệ của DN sau khi nhận đầu tư; Nhà đầu tư DNNVV khởi nghiệp sáng tạo được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp có thời hạn đối với thu nhập từ khoản đầu tư vào  DNNVV khởi nghiệp sáng tạo theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập DN; Căn cứ vào điều kiện ngân sách địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định giao cho tổ chức tài chính Nhà nước của địa phương thực hiện đầu tư vào DNNVV khởi nghiệp, sáng tạo theo các nguyên tắc khoản vốn đầu tư từ ngân sách địa phương không quá 30% tổng vốn đầu tư mà DN khởi nghiệp sáng tạo huy động được từ các quỹ đầu tư khởi nghiệp, sáng tạo được lựa chọn; Tiến hành chuyển nhượng vốn đầu tư cho nhà đầu tư tư nhân trong thời hạn 05 năm kể từ thời điểm góp vốn đầu tư.
 
Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia thành lập theo Nghị định số 122/2003/NĐ-CP ngày 22/10/2003. Quỹ cho vay không lãi suất đối với các dự án ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được tạo ra trong nước và có tạo việc làm, thu nhập cho từ 500 lao động trực tiếp trở lên tại các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; cho vay với lãi suất bằng 70% lãi suất cho vay tín dụng đầu tư của Nhà nước trong từng thời kỳ đối với các dự án ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ khác; cho vay với lãi suất bằng lãi suất cho vay tín dụng đầu tư của Nhà nước trong từng thời kỳ đối với các dự án ứng dụng, chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đầu tư nước ngoài.
 
Quỹ phát triển DNNVV thành lập theo quyết định số 601/2013/QĐ-TTg ngày 17/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ và thực tế đi vào hoạt động vào tháng 4/2016, với số vốn điều lệ 2.000 tỷ đồng. Mức cho vay tối đa 70% tổng vốn đầu tư của dự án, phương án sản xuất kinh doanh (không bao gồm vốn lưu động), tối đa 30 tỷ đồng.
 
Song song với đó, Dự án thí điểm phát triển Hệ sinh thái khởi nghiệp dành cho DNNVV của Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC) - là trung tâm nghiên cứu ứng dụng công nghệ đổi mới sáng tạo ở Việt Nam, sẽ áp dụng triệt để các kinh nghiệm quốc tế, huy động tư nhân hoặc chuyên gia nước ngoài điều hành, thể chế thuận lợi, có thể cạnh tranh với các quốc gia khác trên thế giới. NIC sẽ ưu tiên 5 lĩnh vực: Nhà máy thông minh, nội dung số, an ninh mạng, đô thị thông minh, công nghệ môi trường. Những nội dung này được kỳ vọng trở thành hạt nhân cho việc thúc đẩy, phát triển kinh tế của Việt Nam trong dài hạn.
 
Để giúp DNNVV khởi nghiệp tháo gỡ khó khăn trong huy động nguồn vốn phát triển, ngoài việc hoàn thiện hệ thống pháp lý, xây dựng các quỹ đầu tư, phát triển, thời gian tới cần tập trung vào các giải pháp như:
 
Về phía Nhà nước:
 
- Tập trung nâng cao năng lực trong đăng tài sản và làm rõ quyền sở hữu tài sản để tạo điều kiện  cho các DNNVV khởi nghiệp có thể sử dụng tài sản của mình thế chấp cho các khoản vay như: Nâng cao hiệu quả thực thi hợp đồng, cải thiện hệ thống pháp luật để bảo vệ nhà đầu tư, người cho vay, minh bạch hoá và cụ thể hoá các thủ tục pháp lý phá sản và thu hồi nợ mất khả năng thanh toán.
 
- Nhà nước có thể hỗ trợ gián tiếp cho DN khởi nghiệp thông qua các hình thức như: Hỗ trợ mặt bằng sản xuất, thực hiện các chính sách khuyến khích (giảm lãi suất, miễn giảm thuế...); đứng ra bảo lãnh tín dụng cho các DN khởi nghiệp trong những năm đầu theo các điều kiện đi kèm; Thúc đẩy các DN khởi nghiệp chủ động tìm kiếm cơ hội tham gia vào các cụm liên kết ngành và chuỗi giá trị nhằm tăng giá trị của DN khi huy động vốn.

Trên cơ sở môi trường kinh doanh đầu cho DN khởi nghiệp được mở rộng, Nhà nước cần hoàn chỉnh hệ sinh thái hỗ trợ hoạt động của DN khởi nghiệp. Việc xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp đóng  vai trò“trọng tài” để DN khởi nghiệp và hệ sinh thái hỗ trợ tự bổ sungliên kết với nhau.
 
Về phía nhà đầu tư:


- Cần xây dựng chiến lược đầu tư, minh bạch phần vốn góp để phân chia hiệu quả quyền sở hữu công ty; Tham vấn các ý kiến của chuyên gia để có kế hoạch xây dựng chiến lược, phát triển DN hiệu quả, giảm thiểu rủi ro và tránh những chi phí phát sinh ngoài dự toán.

Cần đa dạng hóa các danh mục đầu tư, không nên tập trung vốn đầu tư vào một lĩnh vực cụ thể, nhà đầu tư cần xác định rõ thời gian đầu tư cho từng danh mục. Điều này sẽ giúp các nhà đầu tư có thể chủ động trước những biến động khách quan của thị trường, giảm thiểu rủi ro.

- Cần có chiến lược đầu tư phù hợp theo các giai đoạn phát triển của DN khởi nghiệp.
 
Về phía DN khởi nghiệp:


- DN cần thiết lập một khung quản trị tốt ngay từ đầu hành trình kinh doanh của DN, để phát triển bền vững cũng như có khả năng linh hoạt ứng phó trước những biến động rủi ro của thị trường...

Cần xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh trong vòng 3-5 năm, cũng như có kế hoạch tài chính rõ ràng để hỗ trợ kế hoạch sản xuất kinh doanh. Hệ thống sổ sách kế toán của DN phải đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng khi nhà đầu tư tìm hiểu về DN. Bên cạnh kế hoạch kinh doanh, sản phẩm, ý tưởng kinh doanh, DN khởi nghiệp cần xây dựng kế hoạch tài chính, dự báo dòng tiền, định giá DN. Kế hoạch tài chính phải có sức thuyết phục để chứng minh được cơ sở của các giả định có trong mô hình. DN có kế hoạch tài chính tốt sẽ là cơ sở để định giá DN dựa trên các phương pháp định giá hợp lý. Sau khi gọi vốn thành công từ các nhà đầu tư, DN khởi nghiệp cần điều chỉnh kế hoạch kinh doanh cho phù hợp với tình hình thực tế. Tranh thủ tối đa sự hỗ trợ kỹ thuật của nhà đầu tư như: Định vị chiến lược, kiến thức tài chính, cơ hội mở rộng thị trường… Trong quá trình điều chỉnh kế hoạch kinh doanh, DN khởi nghiệp cần từng bước lên kế hoạch gọi vốn vòng 2./.
 
ThS. Nguyễn Thị Ngân - ThS. Trần Quang Việt
Đại học Công nghiệp Hà Nội

Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top