Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, thực trạng và giải pháp

16/05/2019 - 02:13 PM
Thực trạng doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ

Theo Bộ Công Thương, cả nước mới có trên 3 nghìn doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (CNHT), trong đó có 1.800 doanh nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện và hơn 1.500 doanh nghiệp sản xuất nguyên vật liệu cho ngành dệt may, da giày.
Trong số 1.800 doanh nghiệp nội địa sản xuất phụ tùng, linh kiện chỉ có hơn 300 doanh nghiệp trong nước tham gia vào mạng lưới sản xuất của các tập đoàn đa quốc gia.
Ảnh minh họa, nguồn Internet
Khả năng tự cung ứng các sản phẩm CNHT từ các doanh nghiệp trong nước chiếm tỷ lệ thấp. Cụ thể: Ngành dệt may, da giày mới chỉ đạt 40-45%; ngành sản xuất, lắp ráp ô tô mới đạt 7-10%; điện tử, viễn thông đạt 15%; điện tử chuyên dụng và các ngành công nghiệp công nghệ đạt 5%.

Trong ngành CNHT, chỉ có một số doanh nghiệp sản xuất linh kiện tại một số lĩnh vực như: Sản xuất khuôn mẫu các loại (gồm: Linh kiện xe đạp, xe máy; linh kiện cơ khí tiêu chuẩn; dây cáp điện; linh kiện nhựa - cao su kỹ thuật; săm lốp các loại…) đã đáp ứng khá tốt nhu cầu trong nước và được xuất khẩu sang nhiu quốc gia trên thế giới
Thực tế cho thấy, phát triển doanh nghiệp CNHT ở Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của chuỗi giá trị, chủ yếu cung ứng nguyên liệu, phụ tùng đơn giản như: Bao bì, một số khuôn mẫu nhựa. Còn các linh, phụ kiện phức tạp, tinh vi thường do các doanh nghiệp FDI đảm nhận hoặc nhập khẩu từ bên ngoài. Quy mô các doanh nghiệp CNHT chủ yếu là nhỏ và siêu nhỏ nên rất khó cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài khi tham gia sâu vào chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu.

Trong cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam, các mặt hàng nguyên liệu (như :Hóa chất ,chất dẻo, nhựa, thép và kim loại )và các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ (linh kiện, phụ kiện) là những đầu vào thiết yếu cho các sản phẩm công nghiệpvẫn chiếm tỷ  trọng cao và ít thay đổi trong suốt giai đoạn vừa qua. Riêng năm 2018,  số liệu của Tổng cục Thống kê cho biết, nhiu mặt  hàng phục vụ sản xuất, gia công, lắp ráp trong nước có kim ngạch nhập khẩu tăng so với năm trước. Cụ thể, điện tử, máy tính và linh kiện đạt 42,5 tỷ USD, tăng 12,5%; vải đạt 12,9 tỷ USD, tăng 13,5%; sắt, thép đạt 9,9 tỷ USD, tăng 9%; chất dẻo đạt 9,1 tỷ USD, tăng 20%; kim loại thường đạt 7,3 tỷ USD, tăng 24,9%; sản phẩm chất dẻo đạt 5,9 tỷ USD, tăng 8,1%; nguyên phụ liệu dệt may, giày dép đạt 5,7 tỷ USD, tăng 5,7%; hóa chất đạt 5,2 tỷ USD, tăng 25,2%.

Các doanh nghiệp nhập khẩu nhiu linh kiện nhưng cũng đồng thời xuất khẩu được nhiu mặt hàng với giá trị tăng cao trong năm 2018 như: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 29,4 tỷ USD, tăng 13,4%; hàng dệt may đạt 30,4 tỷ USD, tăng 16,6%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 16,5 tỷ USD, tăng 28%; giày dép đạt 16,3 tỷ USD, tăng 11%. Tuy nhiên, năm 2018, tỷ trọng xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực vẫn thuộc v khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó: Điện thoại và linh kiện chiếm 99,7%; điện tử, máy tính và linh kiện 95,6%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng 89,1%; hàng dệt may 59,9%.

Nguồn nguyên liệu đầu vào phụ thuộc chủ yếu thị trường ngoài nước, đặc biệt là thị trường Trung Quốc, được cho là hạn chế của ngành CNHT. Năm 2018, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 65,8 tỷ USD, tăng 12,3% so với năm 2017, trong đó, vải tăng 18%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 11,4%.

Tiếp theo là thị trường Hàn Quốc với kim ngạch nhập khẩu đạt 47,9 tỷ USD, tăng 2%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 14,3%; vải tăng 6,6%; điện thoại và linh kiện tăng 1,6%. Nhập khẩu của Việt Nam từ thị trường ASEAN cũng đạt 32 tỷ USD, tăng 13%, trong đó máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 14,1%; Nhật Bản đạt 19,3 tỷ USD, tăng 13,4%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 29,6%; sắt thép tăng 15,3%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 2,6%. Nhập khẩu từ EU đạt 13,8 tỷ USD, tăng 13,1%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 29,2%; vải tăng 23,4%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 15,1%; từ Hoa K đạt 12,8 tỷ USD, tăng 36,7%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 7,9%.

Một hạn chế nữa là lĩnh vực sản xuất của các doanh nghiệp CNHT trong nước khá giống nhau, cả v trình độ, quy mô, công nghệ và sản phẩm; thiếu sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Trong ngành cơ khí, đa số là gia công các công đoạn cơ khí đơn giản (dập, cắt, hàn, sơn...) rất ít doanh nghiệp thực hiện các công đoạn công nghệ cao như đúc, xử lý nhiệt, gia công b mặt. Trong lĩnh vực điện tử mới chỉ tập trung chủ yếu vào các chi tiết nhựa và bao bì. Các chi tiết như: Mạch in nhiu lớp, các linh kiện điện tử rất ít doanh nghiệp đủ trình độ sản xuất. Trong ngành dệt may, chủ yếu mới phát triển ở công đoạn may.

Phần lớn các doanh nghiệp CNHT có quy mô nhỏ, không đủ năng lực đầu tư, hấp thụ và đổi mới công nghệ sản xuất. Lao động tại các doanh nghiệp CNHT là lao động phổ thông, được đào tạo dưới hình thức vừa học vừa làm. Tỷ lệ lao động qua đào tạo, đặc biệt là lao động có kỹ năng đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp rất thấp và luôn trong tình trạng khan hiếm. Bên cạnh đó, trình độ đội ngũ quản lý, lãnh đạo doanh nghiệp còn hạn chếĐây chính là những rào cản lớn gây khó khăn cho phát triển CNHT ở Việt Nam.

Giải pháp phát triển doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong thời gian tới

Để Việt Nam trở thành“công xưởng lớn”của Thế giới một điểm tựa cho nhiu tập đoàn lớn xuyên quốc gia cung ứng sản phẩm, dịch vụ cạnh tranh tại khu vực trên toàn cầu, trong thời gian tới các doanh nghiệp CNHT cần tập trung vào các giải pháp sau:
Một là, xây dựng chính sách đặc thù để thúc đẩy phát triển các ngành CNHT, tạo nn tảng cơ bản cho công nghiệp hóa theo hướng hiện đại và bn vững.

Hai là, nâng cao vai trò khuyến khích các địa phương trong việc xây dựng các chính sách, chương trình phát triển CNHT riêng, đầu tư các nguồn lực trên địa bàn trên cơ sở căn cứ các quy định của pháp luật và bảo đảm phù hợp với điu kiện kinh tế - xã hội của từng địa phương.

Ba là, xây dựng các biện pháp hỗ trợ phù hợp để các doanh nghiệp CNHT tham gia hiệu quả các hiệp định thương mại tự do đã ký kết. Tích cực tháo gỡ các rào cản, chống các hành vi độc quyn, cạnh tranh không lành mạnh.

Bốn là, tiếp tục định hướng triển khai hiệu quả Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ được phê duyệt tại Quyết định số 68/QĐ-TTg ngày 18 tháng 01 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ.

Năm là, xây dựng cơ sở dữ liệu v các doanh nghiệp CNHT Việt Nam và cụm liên kết nhằm thúc đẩy kết nối giữa nhà cung cấp Việt Nam và các tập đoàn đa quốc gia có nhu cầu tìm kiếm nhà cung cấp tại Việt Nam.

Sáu là, xây dựng lộ trình v tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm đối với các doanh nghiệp, tập đoàn đa quốc gia đầu tư, sản xuất tại Việt Nam dựa trên lộ trình công nghệ và phát triển sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất, chế tạo sản phẩm CNHT của Việt Nam./.
Nguyễn Hữu Cung
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top