Đổi mới hoạt động tín dụng đầu tư của nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong giai đoạn mới

26/10/2021 - 02:25 PM
Định hướng phát triển kinh tế và yêu cầu về vốn đầu tư cho giai đoạn mới
 
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 01/2021) đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 10 năm 2021-2030 với mục tiêu đến năm 2030 nước ta trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thuộc nhóm trên của các nước có thu nhập trung bình cao, và đến năm 2045 trở thành nước phát triển có thu nhập cao.

Để đáp ứng được nhu cầu vốn đầu tư phát triển, nền kinh tế sẽ phải huy động qua nhiều kênh khác nhau, như chi đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn vay của các tổ chức tín dụng, vốn huy động qua thị trường chứng khoán… Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam giai đoạn sắp tới, có thể thấy rằng việc huy động nguồn vốn đầu tư qua các kênh nói trên cũng gặp nhiều khó khăn, xuất phát từ những lý do sau đây:
  • Đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước: Việc chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước sẽ được siết chặt để phù hợp với chủ trương của Đảng đã được đề ra tại Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững. Theo đó, kỷ luật, kỷ cương tài chính - ngân sách nhà nước sẽ được siết chặt nhằm bảo đảm cân đối ngân sách tích cực, giảm dần tỉ lệ bội chi, nguồn vốn ngân sách nhà nước sẽ chủ yếu tập trung đầu tư các công trình trọng điểm, có sức lan toả lớn và giải quyết các vấn đề phát triển của quốc gia, vùng và liên vùng, tạo thuận lợi thu hút đầu tư tư nhân, đầu tư trực tiếp nước ngoài.
  • Đối với nguồn vốn ODA: Với việc Việt Nam chính thức vươn lên trở thành quốc gia có thu nhập trung bình từ năm 2010 và “tốt nghiệp IDA” từ tháng 7/2017, tức là không còn nằm trong nhóm những nước nhận được các khoản vay ưu đãi từ Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA) thuộc Ngân hàng Thế giới nữa, nguồn vốn ODA đầu tư vào Việt Nam trong những năm tới sẽ giảm dần, tiến tới áp dụng các điều kiện vay vốn từ các quốc gia và định chế tài chính đa phương tương tự như các khoản vay thương mại.
  • Đối với nguồn vốn của các tổ chức tín dụng: Theo định hướng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tỷ lệ tối đa vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung dài hạn đang được giảm dần. Hiện tại, theo Thông tư số 22/2019/TT-NHNN, các tổ chức tín dụng đang được sử dụng tối đa 40% nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Tuy nhiên, theo Thông tư số 08/2020/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 22/2019/TT-NHNN (ban hành ngày 14/8/2020 và có hiệu lực từ ngày 01/10/2020), tỷ lệ này theo lộ trình sẽ giảm xuống còn 37% từ ngày 01/10/2021 và 34% từ ngày 01/10/2022 để tiến tới mức 30% từ ngày 01/10/2023. Do đó, trong thời gian tới, việc vay vốn trung và dài hạn từ các tổ chức tín dụng để phục vụ nhu cầu đầu tư cũng trở nên khó khăn hơn.
  • Đối với nguồn vốn huy động qua thị trường chứng khoán: Mặc dù huy động vốn đầu tư qua thị trường này là xu hướng tất yếu trên thế giới, tuy nhiên ở Việt Nam, tỷ lệ huy động vốn qua thị trường chứng khoán vẫn còn ở mức thấp, việc huy động vốn qua thị trường này chưa trở thành một kênh phổ biến được các nhà đầu tư ưa chuộng xuất phát từ trình độ phát triển của thị trường chứng khoán cũng như năng lực quản lý tài chính của các doanh nghiệp.
Bắt nguồn từ những lý do nêu trên, việc duy trì một kênh tạo lập nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế thông qua hoạt động TDĐT của Nhà nước là rất cần thiết nhằm đảm bảo vẫn đáp ứng được nhu cầu vốn đầu tư của nền kinh tế mà không tạo ra áp lực quá lớn cho các kênh cung ứng vốn còn lại hoặc không làm cho hoạt động của các kênh này đi chệnh định hướng đã được đặt ra.
 
Thực trạng khả năng cung ứng vốn TDĐT của Nhà nước

Ở Việt Nam hiện nay, nguồn vốn TDĐT của Nhà nước đang được cung ứng qua một định chế tài chính đặc biệt của Chính phủ là Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB)2. Đối tượng sử dụng vốn TDĐT của Nhà nước là các dự án thuộc danh mục do Chính phủ quy định từng thời kỳ, trong đó chủ yếu tập trung vào lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng KT-XH, phát triển nông nghiệp, nông thôn và phát triển công nghiệp. Ngoài ra, nguồn vốn TDĐT của Nhà nước còn tài trợ cho một số loại dự án đầu tư được thực hiện tại một số địa bàn thuộc diện ưu tiên theo chính sách của Nhà nước (địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn; vùng đồng bào dân tộc Khơ me sinh sống tập trung, các xã thuộc Chương trình 135 và các xã biên giới thuộc Chương trình 120, các xã vùng bãi ngang…).

Kể từ khi thành lập (2006) đến nay, VDB đã cung ứng cho nền kinh tế một lượng vốn TDĐT của Nhà nước rất lớn, đáp ứng yêu cầu phát triển cơ sở hạ tầng KT-XH cũng như nâng cao năng lực sản xuất của các ngành kinh tế. Tính chung trong cả giai đoạn 2006-2020, số vốn TDĐT của Nhà nước đã tài trợ cho các dự án qua VDB chiếm khoảng 0,5% GDP và gần 1,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội cùng thời kỳ.

Tuy nhiên, trong một số năm gần đây, quy mô tài trợ vốn TDĐT của Nhà nước hàng năm có xu hướng sụt giảm. Nếu như năm 2015, số vốn TDĐT của Nhà nước giải ngân trong năm là 25.947 tỷ đồng và dư nợ TDĐT cuối năm đạt tới 142.823 tỷ đồng, thì đến năm 2020, con số tương ứng chỉ còn lại lần lượt là 872 tỷ đồng và 91.986 tỷ đồng. So với năm 2015, dư nợ TDĐT của Nhà nước năm 2020 tại VDB chỉ bằng 64,4%.
 
 
Nguyên nhân cơ bản của tình trạng nói trên chủ yếu là do Chính phủ thu hẹp danh mục đối tượng sử dụng vốn TDĐT của Nhà nước qua từng giai đoạn3, đồng thời giảm dần các ưu đãi về điều kiện cho vay của nguồn vốn này, đặc biệt là lãi suất cho vay và bảo đảm tiền vay4. Bên cạnh đó, xuất phát từ khó khăn trong việc cân đối ngân sách nhà nước, Chính phủ cũng không bố trí đủ nguồn lực tài chính cho VDB tương xứng với nhiệm vụ thực thi chính sách TDĐT của Nhà nước, từ việc không cấp đủ vốn điều lệ cho đến việc không thanh toán kịp thời các khoản cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý phát sinh hàng năm của VDB5. Ngoài ra, sự sụt giảm quy mô cung ứng vốn TDĐT của Nhà nước còn bắt nguồn từ một nguyên nhân rất quan trọng là sự hạn chế về thẩm quyền quyết định của VDB đối với các vấn đề phát sinh trong hoạt động TDĐT, từ việc xác định kế hoạch tăng trưởng tín dụng và kế hoạch huy động vốn hàng năm cho đến việc phán quyết các vấn đề liên quan đến các dự án vay vốn (như lãi suất cho vay, bảo đảm tiền vay, mức vốn cho vay, biện pháp xử lý rủi ro…). Cụ thể:
  • Theo quy định về đầu tư công và quản lý nợ công, quy mô cho vay vốn TDĐT của Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thông qua Kế hoạch tín dụng đầu tư phát triển được giao cho VDB hằng năm; quy mô phát hành trái phiếu để huy động vốn phục vụ hoạt động tín dụng này được quyết định thông qua hạn mức bảo lãnh của Chính phủ cấp cho VDB hằng năm.
  • Theo quy định tại Nghị định số 75/2011/NĐ-CP, lãi suất cho vay đối với các dự án được thực hiện theo lãi suất do Bộ Tài chính quyết định, việc cho vay vượt 70% tổng mức đầu tư của dự án phải được Thủ tướng Chính phủ quyết định.
  • Theo quy định tại Nghị định số 32/2017/NĐ-CP, các dự án có nhu cầu vay vốn quá 15 năm hoặc không đáp ứng đủ yêu cầu chung về bảo đảm tiền vay phải được Thủ tướng Chính phủ quyết định.
- Theo quy định tại Nghị định số 75/2011/NĐ-CP và Nghị định số 32/2017/NĐ-CP, các biện pháp xử lý rủi ro vốn TDĐT của Nhà nước mà VDB được quyết định chủ yếu là điều chỉnh kỳ hạn trả nợ và gia hạn nợ, còn các biện pháp khác (khoanh nợ, xoá nợ gốc, xoá nợ lãi, bán nợ…) phải được quyết định bởi Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc Thủ tướng Chính phủ…

 
Một số đề xuất đổi mới hoạt động TDĐT của Nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
Kết quả phân tích ở các phần trước của bài viết đã chỉ ra rằng, yêu cầu phát triển của nền kinh tế trong giai đoạn sắp tới đòi hỏi một lượng vốn rất lớn, trong đó bao gồm cả vốn TDĐT của Nhà nước. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai hoạt động TDĐT của Nhà nước những năm gần đây cho thấy, để có thể mở rộng khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế thì hoạt động TDĐT của Nhà nước cần phải được đổi mới trên nhiều phương diện, bao gồm cả chính sách về TDĐT của Nhà nước cũng như quy định về tổ chức và hoạt động của cơ quan thực thi chính sách này nhằm khắc phục những bất cập đã được chỉ ra ở trên.

Với yêu cầu đó, VDB và các cơ quan quản lý nhà nước cần phối hợp nghiên cứu và đề xuất với Chính phủ thực hiện một số giải pháp sau đây:
  • Mở rộng danh mục đối tượng vay vốn TDĐT của Nhà nước theo hướng xem xét bổ sung một số loại hình dự án thuộc các lĩnh vực được ưu tiên phát triển theo Chiến lược phát triển KT-XH 10 năm 2021-2030, bên cạnh các dự án thuộc danh mục đối tượng vay vốn TDĐT của Nhà nước được quy định tại Nghị định số 32/2017/NĐ-CP hiện nay.
  • Sửa đổi các quy định về điều kiện vay vốn TDĐT của Nhà nước theo hướng cho phép VDB được thực hiện chính sách phân biệt lãi suất cho vay và tỷ lệ bảo đảm tiền vay theo khách hàng vay vốn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có uy tín và có dự án hiệu quả được vay vốn với lãi suất thấp hơn và tỷ lệ bảo đảm tiền vay nhỏ hơn so với các doanh nghiệp khác. Việc áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay hoặc không áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay đối với mỗi khoản vay do VDB quyết định và chịu trách nhiệm theo mức độ rủi ro của khoản vay.
  • Ưu tiên để VDB được huy động các nguồn vốn có lãi suất thấp từ các quỹ tài chính nhà nước hoặc xem xét cấp bảo lãnh để VDB huy động vốn của các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế trong trường hợp VDB tìm được nguồn vốn giá rẻ từ các tổ chức này; đồng thời tạo điều kiện cho VDB phát hành trái phiếu kỳ hạn phù hợp với yêu cầu cho vay đối với các dự án đầu tư có thời hạn thu hồi vốn dài thuộc đối tượng sử dụng vốn TDĐT của Nhà nước.
  • Bố trí ngân sách nhà nước để cấp đủ vốn điều lệ của VDB theo lộ trình đã được phê duyệt tại Chiến lược phát triển VDB đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 nhằm sớm đạt mức vốn điều lệ theo quy định của Thủ tướng Chính phủ; thanh toán đủ số cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý còn thiếu cho VDB trong thời gian qua, đồng thời không để tình trạng nợ đọng tương tự xảy ra trong các năm tiếp theo.
  • Đổi mới mô hình hoạt động của VDB theo hướng nâng cao tính tự chủ trên cơ sở tính đủ chi phí huy động vốn và các chi phí quản lý hoạt động vào lãi suất cho vay cùng với việc cho phép VDB cung ứng thêm một số dịch vụ ngân hàng có thu phí để tạo nguồn thu nhằm giảm dần số cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý từ ngân sách nhà nước; đồng thời phân quyền mạnh hơn cho VDB trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng TDĐT của Nhà nước tương ứng với khả năng tự chủ về tài chính.
Bên cạnh việc hoàn thiện chính sách như trên, để đáp ứng yêu cầu cung ứng vốn đầu tư cho nền kinh tế thì bản thân VDB, với tư cách là cơ quan thực thi chính sách TDĐT của Nhà nước, cũng cần thực hiện các biện pháp để nâng cao năng lực của mình về mọi mặt, từ chất lượng nhân lực cho đến nền tảng công nghệ cũng như trình độ quản lý. Chỉ trong trường hợp đó, hoạt động cung ứng vốn TDĐT của Nhà nước qua VDB mới có thể được mở rộng quy mô mà không gây ra rủi ro, tổn thất cho VDB hay gánh nặng cho ngân sách nhà nước./. 
TS. Nguyễn Cảnh Hiệp
Ngân hàng Phát triển Việt Nam
 
  
Tài liệu tham khảo:
  1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển KT-XH 10 năm 2011-2020, xây dựng Chiến lược phát triển KT-XH 10 năm 2021-2030 (trong các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng)
  3. Hạnh Nguyễn (2021), “Tỷ lệ vốn huy động qua thị trường chứng khoán còn thấp”, Báo điện tử VietnamPlus TTXVN, truy cập ngày 30/3/2021 tại https://www.vietnamplus.vn/ty-le-von-huy-dong-qua-thi-truong-chung-khoan-con-thap/702258. vnp
  4. Nghị định số 151/2006/NĐ-CP của Chính phủ về TDĐT và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước
  1. Nghị định số 32/2017/NĐ-CP của Chính phủ về TDĐT của Nhà nước
  2. Nghị định số 75/2011/NĐ-CP của Chính phủ về TDĐT và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước
  3. Quyết định số 242/QĐ-TTg ngày 28/02/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025”
  4. Quyết định số 369/QĐ-TTg ngày 28/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển VDB đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
  5. Trần Văn Thọ (2017), “Tiến tới tốt nghiệp ODA toàn phần”, Tạp chí Tia Sáng, truy cập ngày 20/4/2021 tại http://tiasang. com.vn/-dien-dan/Tien-toi-%E2%80%9Ctot-nghiep%E2%80%9D-ODA-toan-phan-10748
  6. Thông tư số 22/2019/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; Thông tư số 08/2020/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 22/2019/TT-NHNN.
  7. Tổng cục Thống kê (2020), Báo cáo số 245/BC-TCTK ngày 27/12/2020 về tình hình KT-XH quý IV và năm 2020, truy cập ngày 20/6/2021 tại http://www.mpi.gov.vn/Pages/tinbai.aspx?idTin=48535&idcm=293
  8. VDB (2016-2021), Báo cáo tổng kết hoạt động các năm 2015-2020
 
 
 
Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top