Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là một trong những vùng kinh tế trọng điểm của cả nước nhưng cũng là khu vực đang phải đối mặt với nhiều thách thức do tác động của biến đổi khí hậu và thiên tai dẫn đến tình trạng nước biển dâng, xâm nhập mặn, lở đất, lũ thất thường... Trước thực trạng này, nhiều giải pháp nhằm tăng cường khả năng phát triển ĐBSCL theo hướng bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu đã và đang được các cơ quan chức năng tích cực triển khai.
Thách thức trước tác động của biến đổi khí hậu
Với ưu thế tự nhiên, sự đầu tư mạnh mẽ của Nhà nước và nỗ lực của Nhân dân nên nhiều năm qua ĐBSCL đã khẳng định vị thế là trung tâm sản xuất, xuất khẩu lúa gạo, thủy hải sản và cây ăn quả hàng đầu của cả nước, góp phần vào bảo đảm an ninh lương thực, mang lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước.
Mô hình kết hợp lúa - tôm mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân trước tác động của biến đổi khí hậu
Tuy nhiên, do đây là vùng đất mẫn cảm với thay đổi của tự nhiên nên hiện ĐBSCL đang phải đối mặt với nhiều thách thức như: Biến đổi khí hậu và nước biển dâng diễn ra nhanh hơn dự báo, gây ra nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan, ảnh hưởng đến sinh kế và đời sống của người dân; Việc khai thác tài nguyên nước trên thượng nguồn châu thổ, đặc biệt là xây dựng đập thủy điện đã làm thay đổi dòng chảy, giảm lượng phù sa, suy giảm nguồn lợi thủy sản, xâm nhập mặn sâu vào nội vùng, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội của vùng; Mặt trái từ hoạt động phát triển kinh tế với cường độ cao ở nội vùng bộc lộ ngày càng gay gắt, gây nhiều hệ lụy như: Ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái nghiêm trọng, sụt lún đất, suy giảm mực nước ngầm, xâm thực bờ biển, nhiều diện tích rừng tự nhiên, nhất là rừng ngập mặn, rừng tràm, rừng phòng hộ bị chặt phá, chuyển đổi sang mục đích sử dụng khác hoặc bị suy thoái nặng nề. Bên cạnh đó, việc khai thác bùn cát quá mức, xây dựng nhà cửa và hạ tầng sát bờ sông, kênh, rạch làm gia tăng nguy cơ sạt lở.
Với hệ thống sông, kênh, rạch dày đặc và có trên 740 km bờ biển, từ năm 2016 đến nay, các tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL đã xuất hiện tổng số 779 điểm sạt lở với tổng chiều dài 1.134 km, trong đó bờ sông có 666 điểm/744 km; bờ biển có 113 điểm/390 km. Hiện còn 561 điểm sạt lở: Bờ sông 513 điểm/602km; bờ biển 48 điểm/208km; trong đó điểm đặc biệt nguy hiểm cần làm ngay là 63 điểm/204km (bờ sông 39 điểm /118km, bờ biển 24 điểm/86km).
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tình hình sạt lở ngày một gia tăng cả về số điểm, quy mô, tốc độ, phạm vi. Cụ thể, sạt lở ở khu vực phía thượng nguồn (các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long) thường lớn hơn khu vực phía hạ nguồn (các tỉnh Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng). Mức độ xói lở xảy ra quanh năm và ngày càng nghiêm trọng. Chỉ tính trong 15 năm trở lại đây, mỗi năm mất trên 350 ha.
Hiện ĐBSCL cũng là một trong năm đồng bằng bị tác động mạnh nhất bởi nước biển dâng; tác động từ các hoạt động khai thác, sử dụng nước ở thượng nguồn Mekong dẫn đến nguy cơ thiếu nước ngọt cục bộ tại một số thời điểm, đặc biệt là suy giảm mạnh phù sa về ĐBSCL. Bên cạnh đó, tình trạng xâm nhập mặn, ô nhiễm môi trường và ngập úng khi triều cường xảy ra ở nhiều đô thị. Tình trạng sạt lở bờ sông, bờ biển, mất rừng ngập mặn ven biển diễn ra nghiêm trọng cũng là những thách thức đáng báo động ở ĐBSCL.
Trước thực trạng đó, những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, triển khai nhiều giải pháp để phát huy tiềm năng, lợi thế, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL, trong đó có phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, phát triển bền vững như: Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu; Quyết định số 287/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 957/QĐ-TTg ngày 6/7/2020 phê duyệt Đề án phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển đến năm 2030, trong đó xác định những giải pháp trước mắt và lâu dài xử lý sạt lở bờ sông, bờ biển nói chung và vùng ĐBSCL nói riêng.
Từ các chủ trương, chính sách đã được cụ thể hóa thành những hành động thiết thực đem lại hiệu quả góp phần nâng cao công tác phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, phát triển bền vững cho vùng ĐBSCL. Cụ thể, từ năm 2016 đến nay, Trung ương đã đầu tư và đã có kế hoạch đầu tư cho các tỉnh vùng ĐBSCL là 16.223 tỷ đồng để xây dựng 218 công trình kè chống sạt lở, với chiều dài 324 km. Trong đó, đã xây dựng hoàn thành 190 công trình/246 km/11.453 tỷ đồng. Đã có kế hoạch đầu tư 28 công trình/78 km/4.770 tỷ đồng, gồm 21 công trình bờ sông và 7 công trình bờ biển.
Từ năm 2015 đến nay, đã trồng và phục hồi 10.042 ha rừng ngập mặn với tổng kinh phí 1.931 tỷ đồng; dự kiến giai đoạn 2022-2025, tiếp tục trồng 2.631 ha rừng ngập mặn. Đã tổ chức di dời 21.696 hộ dân ra khỏi các khu vực sạt lở với tổng kinh phí hỗ trợ 1.773 tỷ đồng.
Cùng với Trung ương, các bộ, ngành, địa phương cũng đã tập trung nhiều hơn cho công tác quản lý bờ sông, lòng sông, bờ biển; Theo đó, tăng cường truyền thông tổ chức điều tra, đánh giá hiện trạng sạt lở, bờ sông, bờ biển, xây dựng bản đồ phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển.
Giải pháp phát triển bền vững Vùng
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, phát triển bền vững của vùng ĐBSCL vẫn còn một số khó khăn, tồn tại cần khẩn trương có giải pháp xử lý như: Tập quán sinh sống ven sông, rạch, ven biển, hoạt động kinh tế-xã hội chủ yếu dựa vào sông nước của một bộ phận người dân vẫn còn phổ biến; Công tác quy hoạch không gian sinh tồn và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cho vùng còn hạn chế; Sạt lở diễn biến mạnh, phức tạp; thiếu nguồn lực để đầu tư phòng ngừa trong khi việc huy động nguồn lực ngoài xã hội đầu tư vào phòng, chống sạt lở còn hạn chế…
Để ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng sụt lún, sạt lở và ngập úng ở ĐBSCL; phát triển, bảo vệ, khai thác bền vững đất, rừng, tài nguyên, khoáng sản; đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, tạo sinh kế cho người dân, doanh nghiệp, quy hoạch lại không gian sinh tồn; bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển bền vững vùng ĐBSCL, thời gian tới cần tập trung vào các giải pháp như:
Về giải pháp trước mắt, tiếp tục nâng cao nhận thức về sự nguy hại và hậu quả của sụt lún, sạt lở và ngập úng ở ĐBSCL; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức quản lý, thực hiện của cấp ủy, chính quyền vào phòng, chống sụt lún, sạt lở và ngập úng.
Các địa phương tiếp tục chủ động hỗ trợ ổn định đời sống cho các hộ dân khu vực đang bị sạt lở; chủ động di dời các hộ dân ở khu vực nguy cơ cao xảy ra sạt lở. Tiếp tục xử lý, khắc phục các khu vực sạt lở đặc biệt nguy hiểm để bảo đảm an toàn cho người dân và cơ sở hạ tầng quan trọng. Phối hợp các cơ quan liên quan rà soát, tổng hợp các khu vực sạt lở đặc biệt nguy hiểm, thực sự cấp bách, ảnh hưởng tới tính mạng và tài sản người dân, lập dự án cụ thể, nghiên cứu, cân đối, bố trí nguồn lực, đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định, triển khai các dự án cần làm ngay.
Về giải pháp lâu dài, cần làm tốt công tác quy hoạch; đánh giá nguyên nhân sạt lở, xác định nguyên nhân để có giải pháp phù hợp, bảo đảm hiệu quả, bền vững. Kiểm soát chặt chẽ công tác quy hoạch, xây dựng công trình, nhà cửa ven sông, ven biển; chủ động sắp xếp, di dời dân cư, nhất là khu vực có nguy cơ sạt lở cao; quản lý việc khai thác cát, khai thác nước ngầm, rừng ngập mặn; rà soát các khu vực có nguy cơ xảy ra sạt lở, chủ động đầu tư để phòng ngừa sạt lở; chủ động xây dựng dự án đầu tư mang tính căn cơ, bài bản, bền vững để ngăn ngừa, khắc phục sạt lở, chú trọng trồng, khôi phục rừng ngập mặn ven biển.
Chủ động bố trí ngân sách Nhà nước, đồng thời tăng cường huy động các nguồn lực ngoài ngân sách, đặc biệt là nguồn lực từ khối tư nhân, doanh nghiệp và người dân được hưởng lợi cho công tác phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển.
Tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, chia sẻ thông tin dữ liệu, kinh nghiệm trong phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển, đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật, tài chính của các quốc gia, các tổ chức quốc tế đối với công tác phòng, chống sạt lở.
Về giải pháp tổng thể, tổ chức không gian lãnh thổ với việc hình thành các tiểu vùng sinh thái làm định hướng phát triển kinh tế, nông nghiệp và cơ sở hạ tầng (vùng đồng bằng ngập lũ, vùng sinh thái nước ngọt, vùng sinh thái nước lợ, nước mặn...). Rà soát, hoàn thiện quy hoạch sử dụng đất, bố trí lại dân cư trong đó kiểm soát và hạn chế việc xây dựng các điểm dân cư tập trung tại các vùng sát bờ sông, kênh, rạch có nguy cơ sạt lở cao nhằm tránh rủi ro; dành không gian thoát lũ để đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản của người dân.
Xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu, phù hợp với điều kiện của vùng trên cơ sở tích hợp thống nhất các quy hoạch ngành, địa phương và sản phẩm chủ lực.
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý với việc xây dựng cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo ba trọng tâm: Thủy sản - cây ăn quả - lúa gắn với các tiểu vùng sinh thái, trong đó coi thủy sản (nước ngọt, nước lợ, nước mặn) là sản phẩm chủ lực. Xây dựng cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý, bảo đảm gắn kết chuỗi sản phẩm hàng hóa, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Chú trọng công nghiệp chế biến và công nghiệp hỗ trợ cho nền kinh tế nông nghiệp. Phát triển công nghiệp xanh, ít phát thải, không gây tổn hại đến hệ sinh thái tự nhiên. Phát triển năng lượng tái tạo gắn với bảo vệ rừng và bờ biển. Phát triển dịch vụ - du lịch dựa trên tiềm năng, lợi thế về đặc điểm tự nhiên, sinh thái, văn hóa, con người với hiệu quả kinh tế cao.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế điều phối phát triển Vùng và tiểu vùng sinh thái để nâng cao hiệu quả, thực chất, theo hướng thu gọn đầu mối, lấy quản lý thông minh tài nguyên nước và thích ứng với biến đổi khí hậu phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam và vùng đồng bằng sông Cửu Long làm trọng tâm xuyên suốt./.
Trang Nguyễn