Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là một trong những vùng trọng điểm kinh tế của cả nước có tiềm năng và tiềm lực lớn, nhất là về lĩnh vực nông nghiệp. Để thúc đẩy kinh tế - xã hội toàn vùng đạt mức tăng trưởng cao, ĐBSCL cần nhận diện đúng thách thức, khai thác tiềm năng và có giải pháp chiến lược để khơi thông nguồn lực, phát triển Vùng theo hướng bền vững, tăng trưởng xanh và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Từ khóa: Đồng bằng sông Cửu Long, tăng trưởng, nguồn lực, thách thức, khơi thông…
Abstract: The Mekong Delta, one of the key economic regions of the country with great potential and strength, especially in the field of agriculture. To promote socio-economic growth of the entire region, the Mekong Delta needs to properly identify challenges, exploit potentials and have strategic solutions to unlock resources, develop the region in a sustainable way, and increase growth. green growth and adaptation to climate change.
Keywords: Mekong Delta, growth, resources, challenges, unclogging...
Tăng trưởng đi đôi với thách thức
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng tập trung sản xuất lúa gạo và có điều kiện thuận lợi phát triển nông nghiệp, đóng góp lượng lớn hàng nông sản xuất khẩu. Không chỉ về nông nghiệp, ĐBSCL còn có nhiều tiềm năng về công nghiệp dầu khí và năng lượng tái tạo như: Năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng sóng thủy triều, địa nhiệt… Bên cạnh đó, Vùng còn có nhiều tiềm năng phát triển du lịch với hàng trăm hòn đảo, có 4 khu dự trữ sinh quyển, vườn quốc gia, khu bảo tồn tự nhiên được công nhận là khu Ramsar của thế giới. Ngoài ra, khu vực này còn có nhiều khu đất ngập nước, rừng nhiệt đới có tầm quan trọng quốc gia, quốc tế như: Rừng tràm Trà Sư (An Giang), Lung Ngọc Hoàng (Hậu Giang), vườn quốc gia Phú Quốc (Kiên Giang)…
Với những lợi thế tự nhiên sẵn có cùng tiềm lực nội tại, sau 05 năm thực hiện các chính sách quy hoạch và phát triển một cách hiệu quả, quy mô kinh tế vùng ĐBSCL ngày càng mở rộng. Năm 2020, quy mô kinh tế của Vùng đạt khoảng 970 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,95% tổng sản phẩm trong nước (GDP) cả nước; tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân đầu người đạt 56,02 triệu đồng/người/năm, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 62,8%.
Đến năm 2024, tăng trưởng GRDP của Vùng ước đạt 7,31%, cao hơn mức bình quân cả nước (khoảng 7%), đứng thứ 3/6 các vùng kinh tế. Một số địa phương có mức tăng trưởng khá như: Hậu Giang (8,76%), Long An (8,3%), Kiên Giang (7,5%); đặc biệt là Trà Vinh với tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 10,04%, đứng đầu Vùng và là một trong mười địa phương dẫn đầu về tăng trưởng kinh tế của cả nước. Năm 2024, quy mô GRDP theo giá hiện hành vùng ĐBSCL đạt khoảng 1.409 nghìn tỷ đồng, tăng 11,9% so với năm 2023 và chiếm 12,2% cả nước. Cơ cấu kinh tế của vùng tương ứng 3 khu vực công nghiệp, nông - lâm nghiệp - thủy sản và dịch vụ là 30,08%, 27,93% và 36,96%.
Lũy kế đến hết tháng 12/2024, toàn vùng có 2.098 dự án đầu tư nước ngoài (FDI) đang hoạt động với tổng số vốn đăng ký là 36,81 tỷ USD; đứng thứ 4/6 vùng kinh tế. Năm 2024, toàn vùng thu hút 142 dự án FDI mới với tổng vốn đăng ký khoảng 759 triệu USD, trong đó riêng tỉnh Long An có 124 dự án với số vốn đăng ký 564,2 triệu USD. Số doanh nghiệp hoạt động, kê khai thuế toàn vùng đạt khoảng 70,6 nghìn doanh nghiệp, tăng khoảng 2,4 nghìn doanh nghiệp so với năm 2023 (tăng 9,6%).
Vùng ĐBSCL còn là vùng sản xuất và xuất khẩu lương thực, thực phẩm, thủy hải sản và cây ăn quả lớn nhất cả nước, góp phần vào bảo đảm an ninh lương thực, mang lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước. Năm 2024, sản lượng lúa của Vùng đạt 24,2 triệu tấn, chiếm 55,4% tổng sản lượng lúa cả nước; sản lượng trái cây đạt 4,3 triệu tấn, chiếm 60% cả nước; sản lượng thủy sản khoảng 4,79 triệu tấn, chiếm 55,7% sản lượng thủy sản của cả nước.
Các tỉnh vùng ĐBSCL có đóng góp quan trọng trong sản xuất phục vụ tiêu thụ nội địa và xuất khẩu các mặt hàng nông, thủy sản quan trọng như: Gạo, thủy sản (tôm, cá tra...) và rau quả (chiếm khoảng 60 - 70% tổng xuất khẩu cả nước). Cùng với đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Vùng cũng tăng trưởng mạnh mẽ với mức tăng 2 con số. Cụ thể, trong năm 2024, xuất khẩu cả vùng đạt khoảng 25,7 tỷ USD, tăng khoảng 16% so cùng kỳ; nhập khẩu cả vùng đạt 13,8 tỷ USD, tăng khoảng 21,5% so cùng kỳ.
Môi trường kinh doanh của Vùng cũng dần được cải thiện, toàn vùng có 8/13 địa phương nằm trong nhóm 30 địa phương có Chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) tốt nhất. Trong đó, Long An là địa phương bứt phá mạnh mẽ, đứng thứ 2 về chỉ số PCI năm 2023. Đến hết ngày 31/12/2024, giải ngân đầu tư công của cả vùng đạt 64.586 tỷ đồng/78.765 tỷ đồng kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, đạt 82%, cao hơn so với mức bình quân chung 77,55% của cả nước. Nhiều dự án, công trình trọng điểm trong vùng được triển khai tích cực, tạo thuận lợi cho kết nối nội vùng, liên vùng. Công tác an sinh xã hội tiếp tục được quan tâm; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được tiếp tục được bảo đảm, chủ quyền biên giới quốc gia được giữ vững.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được trong năm vừa qua, vùng ĐBSCL còn tồn tại những khó khăn và thách thức cần vượt qua. Theo nhận định của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng tại Hội đồng điều phối vùng ĐBSCL lần thứ 5, kinh tế của Vùng tuy tăng trưởng khá nhưng quy mô kinh tế vùng còn nhỏ; mô hình tăng trưởng chưa thực sự bền vững và còn chậm tại một số địa phương. Sản xuất nông nghiệp chậm hiện đại hóa, thiếu bền vững, các chuỗi liên kết trong nông nghiệp đã được hình thành nhưng chưa được khai thác tối ưu, chưa toàn diện, sản xuất quy mô nhỏ, thiếu liên kết giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, chủ yếu bán thô, chưa qua chế biến nên giá trị chưa cao. Mặt khác, kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng về giao thông còn chưa đáp ứng nhu cầu lưu thông, vận chuyển hàng hóa trong khu vực nhằm tạo hành lang phát triển kinh tế ven biển và vùng ven biển. Chi phí logistic, suất đầu tư cao làm giảm sức cạnh tranh và thu hút đầu tư. Đầu tư cho hạ tầng phát triển nông nghiệp còn hạn chế, nhất là hạ tầng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu.
Mặt khác, ĐBSCL còn là vùng chịu tác động sâu sắc bởi biến đổi khí hậu, đặc biệt là với lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và đời sống của người dân. Tình trạng sụt lún, sạt lở, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn và thiếu nước sinh hoạt là 6 vấn đề nóng ở ĐBSCL. Tình trạng di cư, sự chênh lệch về mức sống và cơ hội việc làm dẫn đến luồng di cư từ vùng lên các đô thị và khu công nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai tăng mạnh; nguồn nhân lực chất lượng cao để tiếp cận khoa học công nghệ còn thấp.
Khơi thông nguồn lực để tăng tốc tiến đến mục tiêu
Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 xác định quan điểm phát triển vùng ĐBSCL theo hướng bền vững, tăng trưởng xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu, dựa trên ba trụ cột: kinh tế - xã hội - môi trường; chú trọng bảo vệ, tôn tạo và phát triển hệ sinh thái tự nhiên hướng tới một mô hình kinh tế xanh, lấy “con người” làm trung tâm, coi tài nguyên nước là cốt lõi.
Đặc biệt, Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 2/4/2022 của Bộ Chính trị khóa XIII về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết 13) thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với vùng. Đây là cơ sở chính trị quan trọng cho sự ra đời của các cơ chế, chính sách mới để khai thác và phát huy ở mức cao nhất các tiềm năng, lợi thế cho sự phát triển nhanh và bền vững toàn vùng và của các địa phương trong vùng đến nay.
Nghị quyết 13 đề ra một số chỉ tiêu cụ thể phát triển ĐBSCL đến năm 2030, gồm: Tăng trưởng bình quân giai đoạn 2021 - 2030 đạt khoảng 6,5 - 7%/năm. Quy mô nền kinh tế đến năm 2030 gấp 2 - 2,5 lần so với năm 2021. Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong tổng thu nhập vùng khoảng 20%; công nghiệp - xây dựng khoảng 32%; dịch vụ khoảng 46%; GRDP bình quân đầu người đạt khoảng 146 triệu đồng/người/năm. Tỷ lệ đô thị hóa đạt 42 - 48%; có 80% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 30% số xã đạt chuẩn nâng cao.
Tầm nhìn đến năm 2045, ĐBSCL là vùng phát triển hiện đại, nhanh và bền vững, toàn diện, sinh thái, văn minh, mang đậm bản sắc văn hóa sông nước; có trình độ phát triển khá so với cả nước; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, phân bố hợp lý và thích ứng với biến đổi khí hậu; kinh tế phát triển năng động, hiệu quả, cơ cấu phù hợp với điều kiện tự nhiên, đa dạng sinh học, văn hóa và con người Nam Bộ; chất lượng cuộc sống của người dân ở mức cao; bản sắc văn hóa độc đáo, đa dạng của các dân tộc được gìn giữ và phát huy; quốc phòng và an ninh được tăng cường, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm; tổ chức đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khối đại đoàn kết các dân tộc được tăng cường.
Thực hiện Nghị quyết số 78/NQ-CP của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị, đến nay đã có 07/26 nhiệm vụ đã hoàn thành; 06/26 nhiệm vụ đang trong thời gian triển khai và dự kiến hoàn thành đúng tiến độ; 08/26 nhiệm vụ chưa hoàn thành; 05/26 nhiệm vụ là các nhiệm vụ thường xuyên triển khai thực hiện theo các Đề án đã được phê duyệt hoặc đã có chủ trương thực hiện.
Trong thời gian tới, để tiếp tục phấn đấu đạt được mục tiêu đặt ra trong bối cảnh cả nước phấn đấu tăng trưởng 2 con số trong kỷ nguyên mới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất một số nội dung, giải pháp nhằm tiếp tục triển khai các hoạt động của Hội đồng điều phối vùng một cách thiết thực, hiệu quả, cụ thể như: Xác định công tác điều phối thực hiện các dự án vùng, liên vùng, dự án trọng điểm quốc gia, dự án thích ứng với biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước là nhiệm vụ trọng tâm, tập trung chỉ đạo, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để hoàn thành các dự án đúng tiến độ đưa vào Kế hoạch hoạt động Vùng năm 2025.
Bên cạnh đó, các địa phương trong Vùng cần sớm triển khai thực hiện một số giải pháp gồm:
Một là, triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp tại quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng ĐBSCL, quy hoạch Tài nguyên nước quốc gia, quy hoạch phòng, chống thiên tai và thủy lợi và quy hoạch tỉnh đã được phê duyệt, trong đó dành nguồn lực xây dựng hệ thống thủy lợi, thoát lũ, vùng trữ - chuyển nước ngọt, hệ thống quản lý và kiểm soát xâm nhập mặn nhằm hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp ứng phó với biến đổi khí hậu; xử lý sạt lở bờ sông và củng cố đê biển.
Hai là, nghiên cứu, sắp xếp lại dân cư, kiểm soát và hạn chế việc xây dựng các điểm dân cư tập trung tại các vùng sát bờ sông, kênh, rạch, tăng mật độ dân cư để tiếp cận tốt hơn đối với kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội.
Ba là, nghiên cứu cơ chế hợp tác vùng trong đảm bảo an ninh nguồn nước, nghiên cứu xây dựng hệ thống quan trắc, giám sát dự báo hạn mặn và giải pháp nâng cao năng lực dự báo hạn mặn đối với vùng.
Bốn là, đẩy mạnh liên kết vùng trong phát triển thương mại, nhất là xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp chủ lực thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư tại thị trường nước ngoài theo quy mô vùng. Các địa phương cần cơ cấu lại ngành nông nghiệp của mình để tạo đột phá về năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh, xây dựng chiến lược phát triển sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu chủ lực của địa phương gắn với phát triển thương hiệu đi đôi với chất lượng đạt chuẩn quốc tế.
Năm là, đẩy nhanh tiến độ nhiệm vụ phát triển trung tâm đầu mối tổng hợp tại Cần Thơ; Đề án trung tâm đầu mối ở Kiên Giang, Cà Mau, Sóc Trăng gắn với vùng nguyên liệu thủy sản ven bờ, Đề án trung tâm đầu mối ở An Giang, Đồng Tháp gắn với vùng nguyên liệu thủy sản nước ngọt, trái cây, lúa gạo.
Sáu là, các bộ, địa phương nghiên cứu, lựa chọn các dự án vùng và có tính chất vùng quan trọng, cấp bách theo các Nghị quyết của Bộ Chính trị và theo quy hoạch Vùng để ưu tiên nguồn vốn bố trí trong kế hoạch trung hạn 2026-2030, trong đó dành nguồn vốn phù hợp để làm công tác chuẩn bị đầu tư trong năm 2025 để triển khai thực hiện trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 2026-2030.
Bảy là, mỗi địa phương trong vùng ĐBSCL cần xây dựng các kịch bản, giải pháp chủ động ứng phó cho riêng địa phương mình và đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp có tính liên vùng, liên quốc gia; đồng thời cần ưu tiên nguồn lực từ NSNN để xây dựng đầu tư các dự án bảo vệ vùng nước ngọt, các dự án đảm bảo an ninh nguồn nước, công trình cấp nước,…
Tám là, tăng cường liên kết phát triển giữa các địa phương trong vùng ĐBSCL với với thành phố Hồ Chí Minh và vùng Đông Nam Bộ nhằm khơi thông, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội./.
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 của Bộ Chính trị khóa XIII về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. Quyết định số 287/QĐ-TTg ngày 28/02/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
3. Các địa phương trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long đóng góp rất lớn vào phát triển kinh tế - xã hội cả nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, https://www.mpi.gov.vn/
Thu Hiền