Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024 là cuộc điều tra giữa kỳ lần thứ hai được thực hiện ở Việt Nam sau khi cuộc điều tra lần đầu tiên được tổ chức vào năm 2014, nhằm mục đích thu thập thông tin về dân số và nhà ở làm cơ sở để đánh giá tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2021 - 2025; xây dựng chính sách, lập kế hoạch dân số và nhà ở phục vụ xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2026 - 2030; giám sát thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững của Liên hợp quốc mà Chính phủ Việt Nam đã cam kết.
Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ thời điểm 0 giờ ngày 01/4/2024 được tiến hành theo Quyết định số 629/QĐ-TCTK ngày 14 tháng 7 năm 2023 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê. Đây là cuộc điều tra chọn mẫu, quy mô mẫu lớn, cỡ mẫu khoảng 20% địa bàn điều tra của cả nước (tương đương 39.340 địa bàn điều tra), mẫu được thiết kế đảm bảo mức độ đại diện đến cấp huyện đối với chỉ tiêu về quy mô dân số và cấp tỉnh đối với các chỉ tiêu còn lại. Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024 thu thập thông tin cơ bản về dân số và nhân khẩu học, tình hình biến động dân số (sinh, chết và di cư), điều kiện ở và sinh hoạt của hộ dân cư.
Kết quả cuộc Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024 được Tổng cục Thống kê biên soạn và trình bày tại ẩn phẩm: “Kết quả chủ yếu Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ thời điểm 0 giờ 01/4/2024”. Ấn phẩm gồm ba phần chính:
Phần I: Các kết quả chủ yếu. Phần này gồm 7 chương với các thông tin về quy mô và cơ cấu dân số, tình trạng hôn nhân, giáo dục, mức sinh, mức chết, di cư nội địa, điều kiện ở và sinh hoạt của hộ dân cư.
Phần II: Thiết kế và tổ chức thực hiện điều tra. Phần này cung cấp thông tin về tổ chức thực hiện điều tra, thiết kế và ước lượng mẫu điều tra, một số khái niệm, định nghĩa.
Phần III: Biểu tổng hợp. Phần này sẽ trình bày hệ biểu được tổng hợp từ kết quả cuộc điều tra.
Ấn phẩm cho biết một số kết quả chủ yếu của Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ (viết gọn là Điều tra DSGK) năm 2024 như sau:
Dân số Việt Nam thời điểm 01/4/2024 là 101.112.656 người. Trong đó, dân số nam là 50.346.030 người, chiếm 49,8%; dân số nữ là 50.766.626 người, chiếm 50,2%. Việt Nam là quốc gia đông dân thứ ba trong khu vực Đông Nam Á (sau In-đô-nê-xi-a và Phi-li-pin) và thứ 16 trên thế giới.
Mật độ dân số của Việt Nam là 305 người/km2, tăng 15 người/km2 so với năm 2019. Với kết quả này, Việt Nam là quốc gia có mật độ dân số đứng thứ ba trong khu vực Đông Nam Á, sau Xin-ga-po (8.539 người/km2) và Phi-li-pin (386 người/km2).
Cả nước có 28.146.939 hộ, tăng gần 1,3 triệu hộ so với Tổng điều tra 2019, tăng 3,9 triệu hộ so với năm 2014 và gấp khoảng 1,25 lần so với 15 năm trước (năm 2009).
Tỷ số giới tính của dân số Việt Nam năm 2024 là 99,2 nam/100 nữ. Trong đó, tỷ số giới tính khu vực thành thị là 96,7 nam/100 nữ, khu vực nông thôn là 100,7 nam/100 nữ.
Dân số thành thị là 38.599.637 người, chiếm 38,2% tổng dân số cả nước; dân số nông thôn là 62.513.019 người, chiếm 61,8%. Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm khu vực thành thị giai đoạn 2019 - 2024 là 3,06%/năm, cao hơn 1,5 lần tỷ lệ tăng dân số bình quân năm khu vực thành thị của cả nước giai đoạn 2014-2019.
Việt Nam vẫn đang trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” với tỷ lệ hai người trong độ tuổi lao động thì có một người phụ thuộc. Trong đó, tỷ trọng dân số từ 15-64 tuổi chiếm 67,4% (giảm 0,6 điểm phần trăm so với năm 2019), tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi chiếm 23,3% (giảm 1,0 điểm phần trăm so với năm 2019) và tỷ trọng dân số từ 65 tuổi trở lên chiếm 9,3% (tăng 1,6 điểm phần trăm so với năm 2019).
Chỉ số già hóa năm 2024 là 60,2%, tăng 11,4 điểm phần trăm so với năm 2019 và 16,9 điểm phần trăm so với năm 2014. Số lượng người già từ 60 tuổi trở lên là 14,2 triệu người, tăng 2,8 triệu người (tương ứng gấp 1,25 lần) so với năm 2019 và tăng 4,7 triệu người (tương ứng gấp 1,5 lần) so với năm 2014. Dự báo đến năm 2030, số người từ 60 tuổi trở lên sẽ xấp xỉ 18 triệu người, tăng gần 4 triệu người so với năm 2024.
Tỷ trọng dân số từ 15 tuổi trở lên đã từng kết hôn của cả nước khá cao, chiếm 74,9%, trong đó số có vợ/có chồng hiện chiếm tới 65,3%. Tuổi kết hôn trung bình lần đầu của dân số từ 15 tuổi trở lên của Việt Nam là 27,3. Tuổi này của nam là 29,4 và của nữ là 25,2. Từ năm 1989 đến nay, tuổi kết hôn trung bình lần đầu của cả hai giới đều tăng nhưng mức tăng của nam nhanh hơn của nữ. Điều này làm tăng thêm khoảng cách chênh lệch về tuổi kết hôn trung bình lần đầu giữa hai giới.
Số người có trình độ học vấn tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT) trở lên của cả nước chiếm 40% tổng dân số từ 15 tuổi trở lên, trong đó nam là 41,2%; nữ là 38,8%. Tỷ lệ dân số có trình độ học vấn tốt nghiệp THPT trở lên đã tăng đáng kể: Tăng 3,5 điểm phần trăm so với năm 2019 và tăng gần 15 điểm phần trăm so với năm 2014 (40% so với 25,4%).
Toàn quốc có 73,6% dân số từ 15 tuổi trở lên không có trình độ chuyên môn kỹ thuật (CMKT). Hay nói cách khác, có 26,4% dân số từ 15 tuổi trở lên ở Việt Nam có CMKT; gần một nửa trong số đó là người có trình độ từ đại học trở lên (chiếm 11,6%). Tỷ lệ dân số có CMKT đã tăng lên đáng kể trong những năm gần đây: Tăng 7,2 điểm phần trăm so với năm 2019 và tăng 9,2 điểm phần trăm so với năm 2014.
Tổng tỷ suất sinh năm 2024 là 1,91 con/phụ nữ, dưới mức sinh thay thế. Kể từ năm 2009 đến hết năm 2022, trong suốt gần 15 năm, mức sinh của Việt Nam giữ trạng thái tương đối ổn định xung quanh mức sinh thay thế. Tuy nhiên, trong 2 năm gần đây, 2023-2024, mức sinh của Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu giảm nhanh hơn.
Tỷ suất sinh thô của Việt Nam năm 2024 là 13,5 trẻ sinh sống/1000 dân. Chỉ số này ở khu vực thành thị là 12,8 trẻ sinh sống/1000 người dân; ở khu vực nông thôn là 13,9 trẻ sinh sống/1000 người dân. Tỷ số giới tính khi sinh (SRB) của Việt Nam là 111,4 bé trai/100 bé gái, cao hơn khá nhiều so với mức cân bằng là khoảng 106 bé trai/100 bé gái. Tình trạng SRB ở mức cao này đã quan sát được từ nhiều năm nay ở Việt Nam.
Tỷ suất chết thô năm 2024 của cả nước là 5,6 người chết/1000 dân, trong đó của thành thị là 4,6 người chết/1000 dân; nông thôn là 6,3 người chết/1000 dân. Tỷ suất chết thô ở cả thành thị và nông thôn đều giảm hơn so với năm 2019, nhưng chênh lệch giữa hai khu vực này gần như không thay đổi qua hai cuộc điều tra. Tỷ suất chết của trẻ em dưới một tuổi (IMR) giảm từ 16,0 xuống 11,3 trẻ em tử vong trên 1000 trẻ em sinh sống từ năm 2009 đến 2024. Ở khu vực thành thị, IMR giảm từ 9,4 xuống 7,0 trẻ em tử vong trên 1000 trẻ em sinh sống, trong khi đó ở nông thôn IMR đã giảm từ 18,7 xuống 12,1 trẻ em tử vong trên 1000 trẻ em sinh sống.
Tuổi thọ bình quân năm 2024 của cả nước là 74,7 tuổi. So với năm 2019, tuổi thọ bình quân tính từ lúc sinh của Việt Nam đã tăng lên 1,1 năm sau giai đoạn 5 năm.
Quy mô và tỷ lệ người di cư tiếp tục xu hướng giảm trong bối cảnh quy mô dân số tiếp tục tăng. Trong tổng số 93,5 triệu người từ 5 tuổi trở lên năm 2024, số người di cư trong 5 năm trước thời điểm điều tra là 4,0 triệu người, tương ứng với 4,3% tổng dân số từ 5 tuổi trở lên. Tình hình di cư trong 5 năm trước thời điểm điều tra cho thấy 13/63 tỉnh có tỷ suất di cư thuần dương. Trong đó, tỉnh Bình Dương có tỷ suất di cư thuần dương cao nhất (77,6‰) với hơn 254 nghìn người nhập cư nhưng chỉ có khoảng 48 nghìn người xuất cư khỏi tỉnh này trong 5 năm trước.
Các kết quả từ Tổng điều tra 1999-2009 cho thấy, giai đoạn những năm 2009 trở về trước, luồng di cư nông thôn - nông thôn là luồng di cư chủ đạo. Tuy nhiên, các quan sát từ kết quả điều tra DSGK 2014 cho thấy, di cư thành thị - thành thị đã trở thành luồng di cư chiếm tỷ trọng lớn nhất trong bốn luồng di cư và xu hướng này vẫn tiếp tục diễn ra đến năm 2024. Trong khi tỷ lệ luồng di cư nông thôn - nông thôn giảm dần từ 33,8% năm 2009 xuống còn 25,8% năm 2024 thì tỷ lệ luồng di cư thành thị - thành thị tăng dần từ 26,4% năm 2009 lên 37,2% năm 2024.
Đa số các hộ dân cư sống trong ngôi nhà/căn hộ thuộc quyền sở hữu riêng của hộ. Tỷ lệ hộ hiện sống trong ngôi nhà/căn hộ thuộc quyền sở hữu riêng của hộ là khoảng 89,7%, tỷ lệ này ở khu vực nông thôn cao hơn khu vực thành thị 16,4 điểm phần trăm (tương ứng 96,2% và 79,8%). Diện tích nhà ở bình quân đầu người năm 2024 là 26,6m2 /người, tăng 3,4m2 /người so với năm 2019. Tỷ lệ hộ sống trong nhà kiên cố hoặc bán kiên cố chiếm tới 97,6% tổng số hộ có nhà ở, tăng 4,5 điểm phần trăm so với năm 2019 (năm 2019 là 93,1%). Mức chênh lệch giữa tỷ lệ hộ sống trong nhà kiên cố hoặc bán kiên cố ở khu vực thành thị và nông thôn thu hẹp đáng kể, chỉ còn 3 điểm phần trăm (khu vực thành thị 99,4% và nông thôn 96,4%). Trong tổng số gần 28,1 triệu hộ trên cả nước, 99,8% hộ gia đình đã sử dụng điện lưới thắp sáng, tăng 0,4 điểm phần trăm so với năm 2019 và 3,7 điểm phần trăm so với năm 2009.
Tiện nghi sinh hoạt của hộ gia đình đã được cải thiện tích cực so với trước đây. Năm 2024, tỷ lệ hộ gia đình có tủ lạnh đạt 89,9%; tỷ lệ hộ gia đình có máy giặt đạt 68,6%; tỷ lệ hộ gia đình có điều hòa nhiệt độ là 52,7% (năm 2019 các tỷ lệ này tương ứng là 80,5%; 52,2%; 31,4%)./.