Kinh nghiệm quốc tế và nguyên tắc về đánh giá lại quy mô Tổng sản phẩm trong nước ở Việt Nam

04/06/2019 - 10:13 AM
Kinh nghiệm quốc tế về đánh giá lại quy mô Tổng sản phẩm trong nước

Trên cơ sở lý luận của hệ thống tài khoản quốc gia, thực trạng tình hình kinh tế - xã hội và tổ chức quản lý, các quốc gia vận dụng linh hoạt trong việc thực hiện đánh giá lại số liệu GDP. Hầu hết các quốc gia có năng lực thống kê tốt đều tiến hành rà soát, đánh giá lại GDP thường xuyên và định kỳ. Mức độ và chu kỳ đánh giá lại phụ thuộc vào biến động về nguồn thông tin, phạm vi và mục đích đánh giá lại. Từ năm 2010 đến nay, nhiều quốc gia như Mỹ, Canada, Đức, Nga, Italia, Croatia, Inđônêxia, Zambia, v.v… đã tiến hành điều chỉnh và công bố lại quy mô GDP và các chỉ tiêu vĩ mô có liên quan.

Cuối tháng 7 năm 2013, Mỹ công bố kết quả tính toán GDP theo cách tiếp cận mới trên cơ sở cập nhật khung thuyết của hệ thống tài khoản quốc gia 2008 (SNA 2008). Theo đó, quy mô GDP của Mỹ năm 2012 tăng thêm 560 tỷ USD, tăng 3,6% so với số liệu đã công bố. Đây là kết quả của sự thay đổi phạm vi tính GDP nhằm phù hợp với quan điểm hiện đại về tăng trưởng kinh tế hiện nay. Trong đó có sự thay đổi về cách xử lý tài sản sở hữu trí tuệ. Hoạt động nghiên cứu và phát triển được nhìn nhận là một ngành kinh tế độc lập và tính vào tích lũy tài sản cố định, thayđược coi là sản phẩm phụ và tính vào chi phí đầu vào của quá trình sản xuất như trước đây. Theothuyết tài khoản quốc gia, đánh giá lại này thuộc vòng 3.
Tương tự Mỹ, năm 2012 Canada1 cũng tiến hành công bố kết quả đánh giá lại dãy số GDP từ năm 2007- 2011 sau khi thực hiện cập nhật khung lý thuyết SNA 2008; cập nhật nguồn thông tin hiện có và bổ sung thông tin mới phát sinh; cập nhật các bảng phân loại mới v.v… Kết quả sau khi đánh giá lại, quy mô GDP giá hiện hành năm 2011 của Canada tăng thêm 2,4%2 (tương đương tăng 36,4 tỷ USD).

Trung Quốc đã ba lần tiến hành đánh giá lại quy mô GDP dựa vào thông tin từ các cuộc Tổng điều tra năm 2004, 2008 và 2013. Kết quả sau khi đánh giá lại năm 2013 cho thấy, quy mô GDP giá hiện hành năm 20133 của Trung Quốc được bổ sung thêm khoảng 305 tỷ USD, tương đương tăng 3,4%; cơ cấu ngành dịch vụ điều chỉnh tăng từ 46,1% lên 46,9%; cơ cấu ngành công nghiệp và xây dựng điều chỉnh giảm từ 43,9% xuống 43,7%. Năm 2016, Trung Quốc tiếp tục đánh giá lại quy mô GDP trên cơ sở thay đổi cách hạch toán hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), bổ sung dịch vụ nhà tự có tự ở theo khuyến nghị của SNA 2008. Kết quả điều chỉnh này đã bổ sung thêm 141 tỷ USD (khoảng 1,3%) vào mức gần 11 nghìn tỷ USD quy mô GDP năm 2015 của Trung Quốc. Sự thay đổi trong cách hạch toán mới đã giúp nền kinh tế lớn thứ hai thế giới linh hoạt hơn trong việc thực hiện các chương trình cải cách kinh tế trong tương lai và phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Năm 2017, Trung Quốc tiến hành cuộc Tổng điều tra kinh tế lần thứ tư; trong đó thực hiện điều chỉnh cách tính dân số, lao động và tiếp tục cập nhật những thay đổi theo SNA 2008 về xử lý tài sản sở hữu trí tuệ, quyền chọn cổ phiếu của người lao động, các chứng khoán phái sinh… Theo đó, quy mô GDP và các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp có liên quan của Trung Quốc sẽ tiếp tục có sự điều chỉnh.
Zambia tiến hành chuyển đổi năm gốc từ năm 1994 sang năm gốc 2010 từ năm 2011-2014. Cùng với chuyển đổi năm gốc, việc cập nhật SNA 2008 và bổ sung quy mô do một số hoạt động trước đây bị bỏ sót cũng được tiến hành. Kết quả đánh giá lại số liệu GDP của Zambia được công bố vào tháng 3 năm 2014 cao hơn 25% so với GDP công bố trước đây4.
Tương tự Zambia, Inđônêxia cũng tiến hành chuyển đổi năm gốc từ năm 2000 sang năm 2010 và cập nhật SNA 2008 kể từ năm 2014. Cùng với chuyển đổi năm gốc so sánh và cập nhật SNA 2008, Inđônêxia cũng triển khai chuyển đổi phân ngành kinh tế từ KLUI 1990 theo ISIC Rev.2 sang KBLI 2009 theo ISIC Rev.4 và nâng cấp mô hình biên soạn GDP từ dựa vào bảng cân đối liên ngành (IOT) sang lấy bảng nguồn và sử dụng (SUT) làm trung tâm để biên soạn GDP và lập IOT. Kết quả đánh giá lại GDP của Inđônêxia được công bố vào tháng 3 năm 2015, GDP theo giá hiện hành tăng thêm 6,45%; nợ nước ngoài/GDP giảm từ 34,7% xuống còn 33,2%; thâm hụt ngân sách giảm từ 2,3% xuống còn 2,2%; thuế/GDP giảm từ 11,4% xuống còn 10,8%. Kết quả này sẽ tiếp tục được cập nhật trên cơ sở số liệu Tổng điều tra Nông nghiệp năm 2013 và Tổng điều tra kinh tế năm 2016.
  
Một số quốc gia khác cũng tiến hành cập nhật SNA 2008 theo khuyến nghị cơ quan Thống kê Liên hợp quốc. Theo đó quy mô GDP giá hiện hành của các nước này cũng thay đổi đáng kể: Ghana tăng 60%. Nigeria tăng 59,5%, Maldive tăng 37%, Kenya tăng 25%, Malaysia tăng 3,2% v.v...
  
Nga và các nước thuộc Liên minh châu Âu cũng đã thực hiện điều chỉnh tăng quy mô GDP do bổ sung kết quả tính toán một số hoạt động kinh tế ngầm vào GDP. Mỗi quốc gia có quy định cụ thể về nội hàm, phạm vi của các hoạt động kinh tế ngầm. Hà Lan chấp nhận hoạt động mại dâm và buôn bán ma túy trong khi các nước khác cấm những hoạt động này; Italia thừa nhận hoạt động của thị trường chợ đen từ năm 1987 và năm 2014 bắt đầu tính thêm hoạt động mại dâm và buôn bán ma túy. Bulgari tính toán cả hoạt động mại dâm và buôn lậu; Đức và Pháp tính toán hoạt động mại dâm và buôn bán ma túy… Năm 2013, GDP của Nga được đánh giá lại tăng khoảng 24,3%; Đức tăng khoảng 3%; Italia tăng khoảng 7%. Năm 2014, GDP của Bulgari đánh giá lại tăng 31,2%; Rumani và Croatia đánh giá lại tăng 28,4%.
 
Nguyên tắc về đánh giá lại quy mô Tổng sản phẩm trong nước ở Việt Nam
 
Từ thực tiễn Việt Nam và bài học kinh nghiệm về đánh giá lại quy mô tổng sản phẩm trong nước của quốc tế, nguyên tắc về đánh giá lại quy mô tổng sản phẩm trong nước ở Việt Nam phải đảm bảo các yếu tố: Tính toàn diện, tính lịch sử, tính so sánh, đặc biệt phải đảm bảo thống nhất quy trình và phương pháp tính.
 
Thứ nhất, về nguyên tắc đảm bảo tính toàn diện
 
Đánh giá lại quy mô GDP phải đảm bảo đầy đủ phạm vi của tất cả các ngành trong nền kinh tế. Tổng điều tra cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp năm 2012 và Tổng điều tra kinh tế năm 2017, Tổng điều tra Nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2011 và 2016 là các căn cứ tốt nhất để rà soát toàn bộ phạm vi số liệu tính toán, bởi tính toàn diện và bao trùm tối đa của các cuộc Tổng điều tra.
 
Thực hiện rà soát, xem xét, đánh giá lại quy mô GDP phải xuất phát từ số liệu vi mô của các cuộc tổng điều tra, các cuộc điều tra toàn bộ và điều tra mẫu hàng năm; tính toán cho các ngành chi tiết từ cấp thấp lên cấp cao để tránh bỏ sót hoặc tính thiếu do thay đổi ngành sản phẩm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
 
Đánh giá lại trên cơ sở sử dụng kết quả tổng điều tra và hồ sơ hành chính của các bộ, ngành, địa phương. Bởi vì, đó là những thông tin chuyên ngành được thu thập, tổng hợp một cách độc lập giúpquan thốngxem xét, cân nhắc và bổ sung thông tin để sử dụng trong quá trình biên soạn GDP.
 
Đảm bảo bổ sung các hoạt động, các sản phẩm còn thiếu trong phạm vi tính toán; xuất phát từ năm có số liệu tổng điều tra. Đây công việc cần thiết bắt buộc trong quá trình biên soạn GDP để đảm bảo tính đồng nhất về phạm vi và cũng chính là đảm bảo nguyên tắc so sánh theo thời gian.
 
Cập nhật lý luận SNA 2008, cập nhật Hệ thống phân ngành kinh tế 2018 và Hệ thống ngành sản phẩm Việt Nam 2018.
 
Về nguyên tắc đảm bảo tính lịch sử và tính so sánh
 
Thực hiện đánh giá lại quy mô GDP phải đảm bảo tính lịch sử, thể hiện qua việc phản ánh đúng và rõ hiện trạng, đặc điểm kinh tế - xã hội của từng năm, từng giai đoạn. Xu thế biến động kinh tế được thể hiện trong tăng trưởng của từng ngành kinh tế qua các năm được tôn trọng. Xem xét, đánh giá từ ngành kinh tế cấp 2 (trừ hoạt động nông nghiệp rà soát chi tiết theo ngành sản phẩm cấp 9) trên cơ sở tôn trọng các diễn biến lịch sử đã phát sinh và được ghi nhận.
 
Thực hiện đánh giá lại quy mô GDP phải thống nhất về lý luận và thực tiễn nhằm đánh giá đúng và đầy đủ kết quả hoạt động kinh tế của từng năm đảm bảo so sánh theo chuỗi thời gian và không gian. Do đó, cần kiểm soát quy mô của năm có tổng điều tra và điều tra toàn bộ; sau đó mở rộng cho các năm liền kề.
 
Về nguyên tắc đảm bảo thống nhất quy trình và phương pháp tính
 
Thực hiện rà soát, đánh giá lại quy mô GDP phải theo quy trình chặt chẽ, khoa học và thống nhất giữa các ngành trong toàn bộ nền kinh tế và thống nhất với kết quả biên soạn GRDP của các địa phương. Thống nhất xem xét, đánh giá lại quy mô GDP từ ngành kinh tế cấp 2, tổng hợp lên ngành kinh tế cấp 1. Riêng ngành Nông, lâm nghiệp và thủy sản thực hiện đánh giá lại từ ngành cấp 3, tổng hợp lên ngành kinh tế cấp 2, cấp 1. Sau đó tổng hợp theo khu vực kinh tế và toàn bộ nền kinh tế.
 
Thống  nhất tính toán toàn bộ hoạt động kinh tế thuộc phạm vi sản xuất theo quy định của Việt Nam.
 
Thống nhất rà soát theo phương pháp sản xuất, theo giá cơ bản, phù hợp với quy định về phương pháp biên soạn GRDP trong Quyết định số 715/QĐ-TTg.
 
Thống nhất sử dụng hệ số IC cả nước tính từ hệ số IC năm 2012 theo 8 vùng kết hợp cập nhật quyền số GO hàng năm của 63 tỉnh, thành phố theo ngành kinh tế cấp 2 để phục vụ biên soạn lại GDP.
 
Thống nhất sử dụng hệ thống chỉ số giá sản xuất (PPI) của cả nước cập nhật quyền số GO hàng năm của 63 tỉnh, thành phố, 8 vùng để xác định chỉ số giá các ngành phục vụ đánh giá lại quy mô GDP./.
  1. https://www150.statcan.gc.ca/n1/pub/ 13-605-x/2011003/article /11491-eng.htm
  2. https://www150.statcan.gc.ca/n1/pub/ 13-605-x/2012002/t/tab03-eng.htm
  3. https://www.cnbc.com/2014/12/19/china-2013-gdp-revision-wont-affect-growth-this-year.htmll
  4. https://www.imf.org/external/np/ins/english/pdf/25_Years_of_STA.pdf, case 13, page 21, “25 Years of IMF Capacity Development in Statistics”
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
 

Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top