Lao động nước ngoài ở Việt Nam qua con số thống kê

24/12/2021 - 10:59 PM

 

Giai đoạn 2005-2019 là giai đoạn mà Việt Nam tăng cường mở rộng kinh tế đối ngoại thông qua các hiệp ước thương mại với các tổ chức, quốc gia, cộng đồng, Việt Nam cũng là điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Vì thế, xu hướng lao động nước ngoài vào Việt Nam cũng ngày càng tăng lên. Thông tin về tình hình lao động nước ngoài được Tổng cục Thống kê thực hiện bằng 3 hình thức bao gồm: Điều tra thống kê, Chế độ báo cáo thống kê và Khai thác hồ sơ hành chính.

Ảnh minh họa

Về số lượng lao động

Năm 2005, số lượng lao động nước ngoài (LĐNN) ở Việt Nam mới có 12 nghìn người, năm 2010 là 55,4 nghìn người, năm 2015 lên tới 83,6 nghìn người và năm 2019 đạt 117,8 nghìn người. Sau 15 năm, số lao động nước ngoài năm 2019 tăng gấp gần 10 lần so với năm 2005 và gấp 1,4 lần so với năm 2015. Số liệu thống kê cho thấy, năm 2019, LĐNN tập trung đông nhất ở vùng Đông Nam bộ là 54,6 nghìn người, trong đó thành phố Hồ Chí Minh 16,1 nghìn người và cao nhất cả nước là Bình Dương 21,6 nghìn người. Tiếp đó, ở khu vực Đồng bằng sông Hồng 35,4 nghìn người, trong đó cao nhất là Hà Nội là 10,7 nghìn người. LĐNN ở vùng Tây Nguyên là thấp nhất, chỉ có 425 người và tỉnh Kom Tum cũng chỉ có 12 LĐNN đến làm việc. Mật độ tập trung LĐNN trên lãnh thổ cao hay thấp của các vùng là do việc hình thành nhiều hay ít các khu công nghiệp hoặc là nơi đô thị lớn hay nhỏ phát triển. Năm 2015, LĐNN tập trung tại thành phố Hồ Chí Minh là cao nhất với 20,4 nghìn người, nhưng đến năm 2019 tỉnh Bình Dương mới là tỉnh thu hút LĐNN cao nhất cả nước (21,6 nghìn người). Nếu năm 2015, vùng Tây Nguyên chỉ tập trung 438 người, trong đó tỉnh Kom Tum chỉ có 8 người thì sau gần 5 năm số lượng LĐNN đến đây hầu như ít thay đổi.

Về giới tính và độ tuổi

Tỷ lệ nam giới trong lao động nước ngoài vào Việt Nam chiếm đại đa số, năm 2015 là gần 90%, tuổi của lao động chủ yếu trên 30 tuổi chiến 86%. Đến hết năm 2019, các tỷ lệ tương đương là 83,1% và 86,6% trong tổng số LĐNN ở Việt Nam.

Về quốc tịch

Tương ứng với tổng số vốn đầu tư hoặc số lượng giấy phép đầu tư nước ngoài được cấp vào Việt Nam là số lượng lao động nước ngoài vào Việt Nam. Hiện nay có 110 quốc gia và vùng lãnh thổ có lao động nước ngoài đến Việt Nam làm việc. Năm 2015, trong tổng số 83,6 nghìn người lao động nước ngoài đến Việt Nam thì lao động đến từ châu Á luôn chiếm hàng đầu, đó là: Lao động có quốc tịch Trung Quốc là 31%, quốc tịch Hàn Quốc là 18%. Nhật Bản 7,0%, Đài Loan 13%.... Tiếp đó là lao động của các nước có quốc tịch Châu Âu, Mỹ. Cuối năm 2019, tỷ lệ này có sự thay đổi, cụ thể: LĐNN có quốc tịch Trung Quốc chiếm 19,4%, Hàn Quốc là 18,3%, Đài Loan (Trung Quốc) là 12,9%, Nhật Bản là 9,5% và lao động đến từ các quốc gia khác là 39,9%. Những năm gần đây lao động phổ thông, không nghề đến Việt Nam làm việc càng ngày càng nhiều theo các dự án trúng thầu tại Việt Nam, trong đó điển hình là Trung Quốc.

Chuyên môn, kỹ thuật và vị trí việc làm

LĐNN vào Việt Nam có chuyên môn-kỹ thuật và vị trí việc làm có thay đổi, cải thiện nhiều trong gần 15 năm qua (giai đoạn 2005-2019). Năm 2015, tỷ lệ LĐNN có trình độ đại học và trên đại học, bằng cấp kỹ thuật: 54% có bằng đại học và trên đại học, 38,6% có chứng chỉ nghề và 7,4% là nghệ nhân ngành truyền thống. Có gần 35,5% LĐNN giữ vị trí quản lý, 46% là chuyên gia kỹ thuật, còn lại 30,1% làm công việc khác. Năm 2019, tỷ lệ về chuyên môn là: 12,0% giữ vị trí quản lý; 9,0% giám đốc điều hành; 56,0% chuyên gia kỹ thuật; 21,7% công việc khác.

Như vậy, sau gần 5 năm (2019), tỷ lệ vị trí việc làm quản lý giảm từ 35,5% xuống chỉ còn 12%. Các vị trí quản lý này đã được người Việt Nam thay thế dần. Còn tỷ lệ chuyên gia kỹ thuật thì ngược lại, tăng từ 46% lên 56%. Thường chuyên gia kỹ thuật là người được đào tạo theo hướng chuyên sâu, có kinh nghiệm, có kỹ năng thực hành công việc. Đồng thời, họ có hiểu biết và kỹ năng vượt trội đồng nghiệp nên đã và đang có tác động tích cực trong chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý, phong cách lao động của nền sản xuất lớn và hiện đại cho lao động nội địa.

Về chất lượng, LĐNN vào Việt Nam ngày càng được cải thiện theo hướng nâng cao chất lượng và nhiều chuyên gia kỹ thuật, nhà quản lý hàng đầu thế giới hoặc châu lục đến Việt Nam.

Tình trạng cấp phép hoạt động

Năm 2015, 93% LĐNN vào Việt Nam làm việc được cấp giấy phép lao động, chỉ có 7% lao động chưa được cấp giấy phép do chưa đủ điều kiện của pháp luật Việt Nam quy định (bao gồm lao động phổ thông và lưu trú quá hạn); Năm 2019 tỷ lệ này thay đổi chút, với 93,6% được cấp giấy phép lao động.

Lao động nước ngoài trong ngành kinh tế

LĐNN vào Việt Nam làm việc ở hầu hết các ngành kinh tế cấp 1. Năm 2015, các ngành thu hút vào làm việc nhiều nhất là xây dựng 20,8%, tiếp đến là ngành dịch vụ (khoa học, công nghệ, giáo dục, y tế) là 20,2%, ngành chế biến chế tạo (sản xuất) là 14,2%. LĐNN làm việc trong ngành vận tải là ít nhất 1,3%.

Sau năm 2015 đến nay, xu hướng các doanh nghiệp vào Việt Nam tăng lên cả qui mô và các ngành kinh tế. Nhiều“Đại bàng” đến Việt Nam“làm tổ” như: Samsung, Formura, Toyota, Honda, Cannon… Năm 2019, LĐNN làm việc tại các ngành kinh tế cũng biến đổi, cơ cấu lao động thay đổi nhiều. Họ tạo nên số lượng sản phẩm mới có giá trị kinh tế cao, phù hợp với người dùng và hiện đại ngày càng nhiều lên.

Tóm lại, các thông tin thống kê LĐNN ở Việt Nam trong giai đoạn 2005-2019 cho thấy“một bức tranh” khá chân thực về LĐNN ở Việt Nam trong gần 15 năm qua, đó là: Số lao động vào Việt Nam ngày càng tăng, chất lượng lao động ngày càng tốt hơn ở tất cả các ngành kinh tế mà họ tham gia. Lực lượng lao động này đã góp phần tạo ra lượng giá trị gia tăng ngày càng lớn, lôi kéo và dẫn dắt lao động nội địa cùng phát triển hơn về chất lượng lao động ở nước ta.

Tuy nhiên, lực lượng lao động này cũng gây ra không ít khó khăn, hệ lụy trong quản lý thị trường lao động về cấp giấy phép lao động, làm không đúng vị trí, trình độ lao động như giấy phép được cấp, gây mất trật tự an ninh, an toàn xã hội, vi phạm pháp luật….Thông tin thống kê về việc làm, thu nhập và đời sống của họ vẫn chưa được thu thập đầy đủ.

Để có được thực trạng chân thực hơn về tình hình LĐNN ở Việt Nam, trong giai đoạn tiếp theo cần có những nghiên cứu sâu hơn với nhiều chỉ tiêu đảm bảo bao phủ được hoạt động của người LĐNN tại Việt Nam./.


TS. Vũ Thanh Liêm

Nguyên Phó Tổng cục trưởng TCTK
 
 
 

Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top