Lễ hội Lam Kinh: Di sản văn hóa phi vật thể vô giá

31/01/2025 - 08:20 AM

Trong kho tàng di sản văn hóa xứ Thanh, Lễ hội Lam Kinh được ví như một viên ngọc quý với nhiều giá trị vô giá, đặc trưng. Lễ hội không chỉ lưu giữ nhiều giá trị độc đáo, mà còn là dịp để người dân đất Việt ôn lại và tự hào về truyền thống đấu tranh dựng nước, giữ nước của các bậc tiền nhân.


Lễ hội Lam Kinh gắn với Khu Di tích lịch sử Lam Kinh và vùng đất Lam Sơn (tỉnh Thanh Hóa). Năm 1433, sau khi vua Lê Thái Tổ băng hà, được an táng ở Lam Kinh. Từ đây, các điện miếu cũng bắt đầu được xây dựng.

Sách “Việt sử thông giám cương mục” đã ghi lại những lần xây dựng Lam Kinh: Năm 1433, vua Lê Thái Tổ mất, thi hài được đưa về Lam Kinh, an táng ở Vĩnh Lăng; tháng Mười hai cùng năm “các quan theo hầu về Tây Kinh dựng Miếu Điện Lam Sơn”. Đến tháng 4/1434, vua Lê Thái Tông sai “Hữu bộc xạ Lê Nhữ Lãm đến Lam Kinh dựng miếu thờ Thái mẫu”.

 Lễ hội Lam Kinh với không gian văn hóa đặc sắc, có ý nghĩa và giá trị vô giá
 

Cứ vài ba năm một lần, vua và các quan trong triều đình nhà Lê lại vào Lam Kinh hành lễ, để tưởng nhớ công đức khai sáng cơ nghiệp của vua Lê Thái Tổ. Các nghi thức hành lễ đều thực hiện nghi thức cung đình. Nghi thức cúng tế gồm:“Tế tẩm miếu dùng bốn con trâu, đánh trống đồng, quân lính reo hò hưởng ứng theo. Về nhạc võ thì múa nhạc “Bình Ngô phá trận”. Văn thì múa nhạc “Chư hầu lai triều”...

Về phần hội, sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép: Hoàng đế Lê Thái Tông “tưởng nhớ công lao của tiền bối, sáng tác điệu vũ bình Ngô”. Việc tổ chức diễn xướng điệu vũ bình Ngô được sách trên ghi lại khá cụ thể: “Năm Thái Hòa thứ 7 (1449) mùa Xuân tháng Giêng vua ban yến cho quan, múa nhạc bình Ngô. Công hầu có người xúc động phát khóc”; “Bảy năm sau (1456), vua Nhân Tông trong dịp về Lam Kinh bái yết Sơn lăng, đã cho đánh trống đồng, diễn khúc “Bình Ngô phá trận” và “Chư hầu lai triều”.

Trải qua nhiều biến cố, triều Lê sụp đổ và khu miếu điện Lam Kinh cũng theo đó mà suy tàn. Đồng thời, những nghi thức tế lễ mang tính cung đình cũng đã biến mất trong “đời sống” vùng đất Lam Kinh suốt một thời gian dài. Phải đến đầu thế kỷ XX, làng Lam Sơn mới dựng ngôi đền thờ ngay trên đất Lam Kinh để thờ vua Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi, Lê Lai và Bạch Y Công chúa. Nhiều nghi thức lễ tế cũng dần khôi phục, được Nhân dân thực hành, gìn giữ. Có lẽ điều này đã tạo nên nét đặc trưng, khác biệt và hấp dẫn cho Lễ hội Lam Kinh, vừa mang tính cung đình, vừa mang tính cộng đồng.

Ngày nay, Lễ hội Lam Kinh diễn ra vào các ngày từ 21 - 22/8 âm lịch hàng năm gắn với lời nhắc nhở: “Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”. Lễ hội Lam Kinh được tổ chức với nhiều lễ nghi trang trọng và linh thiêng. Phần lễ với các nghi thức rước kiệu vua Lê Thái Tổ, kiệu Trung túc vương Lê Lai, đọc chúc văn, tấu cáo tiên tổ dâng hương tưởng niệm vua Lê Thái Tổ và nghĩa sĩ Lam Sơn.

Về với lễ hội Lam Kinh không chỉ để chứng kiến phần đại lễ quy mô hoành tráng; mà còn để mỗi người dân được sống dậy tinh thần yêu nước sục sôi của hào khí Lam Sơn; hòa mình trong không khí hào hùng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn qua các màn trình diễn được đầu tư công phu, với sự tham gia của hàng trăm nghệ sĩ. Phần sân khấu hóa đã tái hiện lại những dấu ấn với “hội thề Lũng Nhai”, “Lê Lai cứu chúa”, “Giải phóng thành Đông Quan”, “Lê Thái tổ đăng quang”. Mỗi một phân cảnh, một tiếng trống chiêng, cờ quạt như đang rút ngắn khoảng cách hiện tại - quá khứ; đưa người dân về những trận chiến, sự kiện đã làm nên danh tiếng lẫy lừng của khởi nghĩa Lam Sơn. Từ đó, người dân có thể hình dung cụ thể những cống hiến, công đức của người anh hùng áo vải cùng các tướng sĩ và Nhân dân Thanh Hóa nói riêng, Nhân dân cả nước nói chung trong cuộc khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược diễn ra cách đây hơn 600 năm.
 


Nghi thức rước kiệu tại Lễ hội Lam Kinh

Lễ hội Lam Kinh còn là nơi trình diễn các trò diễn dân gian truyền thống xứ Thanh như: Xuân Phả, trò chiềng, múa Rồng, Bình Ngô, Sanh Ngô, trống hội... mà tiêu biểu hơn cả là trò Xuân Phả - di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Trò diễn làm tăng thêm tính đặc sắc cho lễ hội Lam Kinh với các điệu múa, hát, âm nhạc hay những chiếc mặt nạ kỳ dị cùng những biểu tượng linh vật tượng trưng cho phẩm cấp quan lại phong kiến. Sự kết hợp của các trò diễn cho thấy sức sống mãnh liệt, dẻo dai của các trò diễn trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân. Đồng thời, khẳng định Thanh Hóa là một vùng đất giàu truyền thống, một kho tàng văn hóa phi vật thể phong phú, sống động, giàu màu sắc, biểu cảm và cũng đầy tính nghệ thuật của người dân các dân tộc Thái, Mường, Kinh.

Với không gian văn hóa đặc sắc, lễ hội Lam Kinh ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong dòng chảy lịch sử. Đồng thời, thể hiện sức mạnh tự thân, sức sống quật cường trước bao biến động lịch sử.

Ngày nay, Lễ hội cũng là dịp để giới thiệu, quảng bá giá trị và hình ảnh Di tích Quốc gia đặc biệt Lam Kinh. Nâng cao ý thức, trách nhiệm của cộng đồng đối với công tác bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa trong thời kỳ hội nhập; thúc đẩy sự liên kết, hợp tác trong quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử; tuyên tuyền về truyền thống lịch sử, văn hoá, đất và người xứ Thanh đến bạn bè trong nước và quốc tế.

Gìn giữ lễ hội Lam Kinh chính là sự tôn vinh công lao của các anh hùng hào kiệt; là gìn giữ văn hóa truyền thống. Đồng thời, giáo dục mọi thế hệ luôn biết trân trọng lịch sử, để xác định trách nhiệm của mình trong gìn giữ và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc./.
 

Trúc Linh



Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top