Năng lực cạnh tranh của Việt Nam so với các nước trong khu vực

30/05/2019 - 10:27 AM
Trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh của quốc gia. Tuy nhiên so với các nước trong khu vực, năng lực cạnh tranh của Việt Nam còn có những khoảng cách nhất định.

Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu

Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI)2 do Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) công bố hàng năm nhằm đánh giá và xếp hạng các nền kinh tế trên thế giới về khả năng cạnh tranh. Theo đánh giá của WEF, năm 2017 Việt Nam xếp hạng thứ 55 trên 137 nền kinh tế, tăng 5 bậc so với năm 2016 và là thứ hạng cao nhất của Việt Nam kể từ khi WEF công bố GCI. Với thứ hạng này, Việt Nam xếp trên một số nước ASEAN như Lào (98); Cam-pu-chia (94); Phi-li-pin (56) nhưng còn khoảng cách rất xa so với Xin-ga-po (3); Ma-lai-xi-a (23); Thái Lan (32); In-đô-nê-xi-a (36) và các nền kinh tế lớn của châu Á là Nhật Bản (9); Hàn Quốc (26); Trung Quốc (27); Ấn Độ (40).

Trải qua 10 năm, chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam đã cải thiện được 13 bậc, từ thứ hạng 68/131 năm 2007 đã lên 55/137 năm 2017, chuyển từ nhóm nửa dưới của bảng xếp hạng cạnh tranh toàn cầu lên nhóm nửa trên. Một số nền kinh tế trong khu vực cũng đã có những bước tiến mạnh mẽ trong thúc đẩy năng lực cạnh tranh như In-đô-nê-xi-a tăng 18 bậc từ thứ hạng 54 năm 2007 lên thứ hạng 36 năm 2017; Phi-li-pin tăng 15 bậc; Cam-pu- chia tăng 16 bậc; Trung Quốc tăng 7 bậc; Ấn Độ tăng 8 bậc.

 
Biểu đồ 1. Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của một số nước ASEAN, giai đoạn 2007-2017
Năng lực cạnh tranh của Việt Nam so với các nước trong khu vực
 
Nguồn: Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF).
 
Việc đạt thứ hạng 55 trong bảng năng lực cạnh tranh toàn cầu, tăng 20 bậc so với cách đây 5 năm là nỗ lực vượt bậc của nền kinh tế Việt Nam. Thành quả này có được nhờ những tiến bộ đáng kể trong các chỉ số về sẵn sàng đổi mới công nghệ và hiệu quả thị trường lao động. Bên cạnh đó, thương mại cũng là một trong những yếu tố chính góp phần vào sự thăng hạng, hiện tại Việt Nam đứng thứ 7 về tỷ lệ giá trị nhập khẩu trên GDP và đứng thứ 11 về tỷ lệ xuất khẩu trên GDP. Tuy nhiên, nếu xét riêng theo từng nhóm yếu tố thành phần cấu thành chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp thì Việt Nam chỉ đứng trên Lào và Cam-pu-chia trong khu vực ASEAN. Đối với nhóm yếu tố thứ nhất3, Việt Nam xếp hạng 75 trong khi Phi-li-pin xếp hạng 67, In-đô-nê-xi-a xếp hạng 46; nhóm yếu tố thứ hai4, Việt Nam xếp hạng 62, dưới Phi- li-pin 1 bậc, dưới In-đô-nê-xi-a 21 bậc; đối với nhóm yếu tố thứ ba5, Việt Nam xếp hạng 84, thấp hơn nhiều In-đô-nê-xi-a (31), Phi-li-pin (61) và chỉ hơn Lào 1 bậc. Điều này cho thấy, trong nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh để thu hút đầu tư và phát triển kinh tế, Việt Nam chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các nền kinh tế tương đồng về mức độ phát triển và quy mô dân số trong khu vực như Phi-li-pin và In-đô-nê-xi-a, đòi hỏi Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực nhiều hơn để bắt kịp các nước trong khu vực.

 
Bảng 1. Xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu của một số nước Đông Nam Á, giai đoạn 2011-2017
 
Năng lực cạnh tranh của Việt Nam so với các nước trong khu vực 1
                                                                                                                                                               
 Nguồn: Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF).
 
Xếp hạng v môi trường kinh doanh

Theo Báo cáo xếp hạng môi trường kinh doanh “Doing Business 2018”, một nghiên cứu theo dõi mức độ thuận lợi kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng Thế giới6, Việt Nam tiếp tục được tăng hạng về môi trường kinh doanh khi xếp hạng thứ 68 trên 190 nền kinh tế, tăng 14 bậc so với đánh giá trong năm 2017, là mức tăng bậc nhiều nhất trong 10 năm qua của Việt Nam, trong đó có 8/10 chỉ số tăng điểm và 6/10 chỉ số tăng bậc. Điều này khẳng định môi trường kinh doanh, thuận lợi hóa kinh doanh của Việt Nam năm 2018 được cải thiện rất nhiều.

Những lĩnh vực mà Việt Nam được đánh giá có nhiều cải cách, giúp việc kinh doanh dễ dàng hơn là tiếp cận điện năng, tiếp cận tín dụng, nộp thuế, giao thương quốc tế và thực hiện hợp đồng. 10 lĩnh vực của Việt Nam có thứ hạng xếp trong khoảng từ 20 đến 129, được đánh giá cao nhất vẫn là giải quyết thủ tục cấp giấy phép/cấp phép xây dựng (xếp thứ 20) và thấp nhất là xử lý khi mất khả năng thanh toán (129).

So sánh tương quan vị thế của Việt Nam với các quốc gia trong khu vực ASEAN, Việt Nam đứng sau 4 quốc gia về môi trường kinh doanh là Xin-ga-po (đứng vị trí thứ 2 thế giới về môi trường kinh doanh); Ma-lai-xi-a (24); Thái Lan (26); Bru-nây (56) và cao hơn các nước như In-đô-nê-xi-a (72); Phi-li-pin (113); Cam-pu-chia (135); Lào (141); Mi-an-ma (171).

 
Đáng chú ý là trong năm 2018, cùng với Việt Nam, 3 nước gồm Thái Lan, In-đô-nê-xi-a và Bru-nây cũng có sự tăng hạng vượt bậc so với năm 2017, thậm chí tăng nhanh hơn Việt Nam: Thái Lan tăng 20 bậc; In-đô-nê-xi-a tăng 19 bậc; Bru-nây tăng 16 bậc. Chính vì vậy, với đà cải cách mạnh mẽ của các nước trong khu vực thì mục tiêu Việt Nam đạt mức độ trung bình của các nước ASEAN 4 trên các chỉ tiêu về môi trường kinh doanh sẽ trở nên thách thức và đòi hỏi chúng ta phải quyết tâm và nỗ lực nhiều hơn.
 
Năng lực cạnh tranh của Việt Nam so với các nước trong khu vực 2

Chỉ số Nhà quản trị mua hàng

Trong những năm qua, hoạt động sản xuất của Việt Nam ngày càng gia tăng, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng của nền kinh tế, thể hiện ở chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) hàng tháng hầu hết ở mức tích cực. Theo đánh giá của Nikkei, năm 2015 là năm có diễn biến phức tạp của lĩnh vực sản xuất, thể hiện ở chỉ số PMI tăng mạnh trong nửa đầu của năm (trong đó tháng 4 đạt 53,5 điểm và tháng 5 đạt 54,8 điểm), sau đó chậm lại và đình trệ ở những tháng cuối năm (PMI tháng 9 và tháng 11 đạt dưới 50 điểm, lần lượt là 49,5 điểm và 49,4 điểm), tháng 12 tăng trở lại với 51,3 điểm do sản lượng hàng hóa đầu tư cơ bản và hàng tiêu dùng đã tăng trở lại dẫn đến sản lượng sản xuất tăng. Trong 2 năm 2016-2017, chỉ số PMI của Việt Nam thể hiện lĩnh vực sản xuất luôn ở trạng thái mở rộng. Chỉ số PMI tăng cao phần lớn do các điều kiện sản xuất kinh doanh đã được cải thiện nhiều; tồn kho hàng mua và hàng thành phẩm tiếp tục giảm từ đầu năm 2016; số lượng đơn đặt hàng mới tăng đáng kể làm cho sản lượng hàng hóa, việc làm và hoạt động mua hàng tăng nhanh. Chỉ số PMI của tháng 11/2016 đạt 54 điểm, cao nhất kể từ tháng 6/2015. Lĩnh vực sản xuất tiếp tục được duy trì mở rộng nên trong tháng 3/2017, chỉ số PMI đạt 54,6 điểm, đưa nước ta dẫn đầu các nước ASEAN, vượt qua nhiều nước như Phi-li-pin (53,8 điểm); In-đô-nê-xi-a (50,5 điểm); Xin-ga-po (50,4 điểm); Thái Lan (50,2 điểm); Ma-lai-xi-a (49,5 điểm).

Tháng 11/2017, mặc dù chỉ số PMI chỉ đạt 51,4 điểm, thấp nhất kể từ đầu năm do tốc độ cải thiện điều kiện kinh doanh lĩnh vực sản xuất chậm lại nhưng các nhà sản xuất tiếp tục tăng mạnh số việc làm và hoạt động mua hàng làm chỉ số PMI đạt 52,5 điểm vào tháng 12.

Trong 7 tháng đầu năm 2018, điểm nhấn chính cho tăng trưởng lĩnh vực sản xuất của nước ta đó là số lượng đơn đặt hàng mới với tốc độ tăng kỷ lục kể từ tháng 12/2015; hoạt động mua hàng hóa đầu vào của các nhà sản xuất và tốc độ tạo việc làm của các công ty/tập đoàn tăng cao là nhân tố quan trọng góp phần mở rộng sản xuất. Phần lớn chỉ số PMI các tháng đầu năm 2018 đều đạt trên 52 điểm (riêng tháng 3 đạt 51,6 điểm), trong đó điểm cao nhất đạt 55,7 vào tháng 6 và cao hơn nhiều so với một số nước ASEAN (In-đô-nê-xi-a 50,3 điểm; Thái Lan 50,2 điểm; Ma-lai-xi-a 49,5 điểm).

Hệ số tín nhiệm quốc gia

Hệ số tín nhiệm quốc gia là chỉ số phản ánh khả năng và sự sẵn sàng hoàn trả đúng hạn tiền gốc và lãi trong danh mục nợ của một quốc gia. Đây là chỉ số cơ bản được các nhà đầu tư quốc tế sử dụng như là một yếu tố xác định mức độ rủi ro khi đầu tư vào một quốc gia. Do đó, kết quả xếp hạng tín nhiệm ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động vốn của một quốc gia trên thị trường quốc tế. Nhận thức về mức độ quan trọng của hệ số tín nhiệm quốc gia, Việt Nam đã hợp tác với 3 tổ chức xếp hạng tín nhiệm có uy tín trên thế giới gồm Moody’s, Standard & Poor’s (S&P) và Fitch’s để định kỳ các tổ chức này đánh giá hệ số tín nhiệm quốc gia cho Việt Nam.

Năm 2005, hệ số tín nhiệm của Việt Nam được Moody’s xếp hạng ở mức ổn định Ba3. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế thế giới các năm 2007-2008 đã có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam: Lạm phát và rủi ro tài chính tăng cao; các cú sốc mạnh về lãi suất, tình hình nợ xấu luôn ở mức cảnh báo. Vì vậy, Moody’s đã giảm hệ số xếp hạng tín nhiệm tài chính của Việt Nam xuống mức B1 trong năm 2010 và năm 2011; năm 2012 tiếp tục giảm một bậc ở mức B2 và là mức thấp nhất so với một số quốc gia trong khu vực. Các nước Ma-lai-xi-a, Thái Lan luôn có hệ số tín nhiệm ổn định, tương ứng ở mức A3, Baa1; hệ số tín nhiệm của Hàn Quốc tăng từ A1 lên Aa3 trong thời gian này.

Năm 2013, theo S&P, Việt Nam có hệ số tín nhiệm tài chính thấp nhất so với một số nước ASEAN và Hàn Quốc, ở mức BB-, là mức ít bị ảnh hưởng trong ngắn hạn nhưng phải đối mặt với sự không ổn định đang gây bất lợi cho hoạt động kinh doanh, các điều kiện tài chính và kinh tế. Hàn Quốc và Ma-lai-xi-a là hai nước có hệ số tín nhiệm tài chính cao AA và A tương ứng (có khả năng tài chính vững chắc, đáp ứng được các cam kết về tài chính). Mức xếp hạng tín nhiệm của Thái Lan là BBB+, thể hiện khả năng tài chính mạnh mặc dù dễ bị tác động bởi những hoàn cảnh kinh tế nhất định; In-đô-nê-xi-a và Phi-li-pin có cùng mức xếp hạng tín nhiệm BBB-, là mức khuyến cáo nên ít đầu tư vào thị trường này.

Thực hiện các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô từ năm 2012, năm 2014 đã đánh dấu bước ngoặt mới về mức xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam, thể hiện ở việc tổ chức Moody’s đã nâng hạng tín nhiệm của Việt Nam lên mức B1 (so với mức B2 năm 2012); trong khi đó S&P và Fitch’s tiếp tục duy trì xếp hạng tín nhiệm nước ta ở mức BB- với triển vọng được đánh giá là ổn định và tích cực. Mặc dù đây là mức thấp nhất so với một số nước ASEAN và Hàn Quốc, nhưng là thông điệp có ý nghĩa tích cực, góp phần giúp các nhà đầu tư có nhìn nhận khả quan hơn về kinh tế Việt Nam, đồng thời nâng cao uy tín của quốc gia và góp phần làm giảm chi phí huy động vốn khi nước ta tiếp cận thị trường vốn quốc tế.

Tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam năm 2017 tiếp tục ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức cao, lạm phát được kiểm soát; nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng trưởng mạnh mẽ, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất; dự trữ ngoại hối của Việt Nam tiếp tục được cải thiện. Chính phủ Việt Nam đã duy trì cam kết trong công tác đảm bảo an toàn nợ công và tái cơ cấu khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Theo xếp hạng của Fitch’s, hệ số tín nhiệm của nước ta tiếp tục được duy trì ở mức BB-, tuy nhiên mức triển vọng tín nhiệm đã được nâng lên từ “ổn định” lên mức“tích cực”. Một số nước có hệ số tín nhiệm giảm: Hàn Quốc giảm từ AA (năm 2015) xuống AA-, Phi-li-pin giảm từ BBB xuống BBB-. Trong nửa đầu năm 2018, kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng tích cực, tổng sản phẩm trong nước 6 tháng tăng cao nhất kể từ năm 2011 trở lại đây; thị trường tiền tệ và hệ thống ngân hàng ổn định, thanh khoản toàn hệ thống được bảo đảm. Việc Chính phủ duy trì cam kết kiểm soát nợ công, cải tổ doanh nghiệp nhà nước cũng như tính thanh khoản của các ngân hàng được cải thiện là những yếu tố góp phần nâng hạng tín nhiệm cho Việt Nam. Do vậy, ngày 10/8/2018, tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s đã nâng bậc xếp hạng tín nhiệm của nước ta lên mức Ba3 từ mức B1 của năm 2017 và thay đổi triển vọng từ mức tích cực sang mức ổn định. Fitch’s cũng nâng hạng tín nhiệm cho nước ta từ BB- (năm 2017) lên BB. Hệ số tín nhiệm của Việt Nam được kỳ vọng sẽ nâng hạng trong thời gian tới khi nền kinh tế nước ta được cải thiện rõ rệt thông qua việc chính sách tài khóa được điều hành hiệu quả, những điểm yếu của hệ thống ngân hàng được giải quyết triệt để và tái cơ cấu mạnh mẽ khu vực doanh nghiệp Nhà nước nhằm giảm thiểu những rủi ro tài chính vĩ mô.


 
(Trích sách Thực trạng kinh tế - xã hội Việt Nam
so với các nước trong khu vực của Tổng cục Thống kê)

1 Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI)chỉ số đo lường sức khoẻ của nền kinh tế trong lĩnh vực sản xuất, nhằm cung cấp thông tin v các điu kiện kinh doanh hiện tại cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà phân tích quảnmua hàng của các công ty/tập đoàn. PMI dựa trên 5 chỉ số thành phần chính: đơn đặt hàng mới; mức tồn kho; sản lượng sản xuất; giao hàng từ nhà cung ứng; môi trường lao động. nh vực sản xuất được chia thành 8 ngành chính: Kim loại khí; hóa chất nhựa; điện tử quang học; thực phẩm đồ uống; khí chế tạo; dệt may; gỗ giấy; vận tải. Chỉ số PMI trên 50 điểm thể hiện sự mở rộng hoạt động sản xuất so với tháng trước, tình hình sản xuất không thay đổi khi PMImức 50 điểm dưới 50 điểm cho thấy sản xuất dấu hiệu chững lại.
2 Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (Global Competitiveness Index - GCI) lần đầu tiên được công bố trong Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCR) 2004-2005 và hiện nay được Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) sử dụng làm chỉ số chính đo lường năng lực cạnh tranh quốc gia.
 
3 Nhóm yếu tố thứ nhất là nhóm chỉ số về các yêu cầu cơ bản, gồm các trụ cột: Thể chế, cơ sở hạ tầng, môi trường kinh tế vĩ mô, y tế và giáo dục tiểu học.
4 Nhóm yếu tố thứ hai là nhóm chỉ số phát huy hiệu quả, gồm các trụ cột: Giáo dục và đào tạo bậc cao, hiệu quả của thị trường hàng hóa, hiệu quả của thị trường lao động, sự phát triển của thị trường tài chính, mức độ sẵn sàng về công nghệ, quy mô thị trường.
5 Nhóm yếu tố thứ ba là nhóm chỉ số phản ánh mức độ tinh vi và đổi mới sáng tạo, gồm các trụ cột: Mức độ tinh vi của hoạt động kinh doanh và mức độ đổi mới sáng tạo.
6 Dự án và Báo cáo chung của Ngân hàng Thế giới và Tổ chức Tài chính Quốc tế về môi trường kinh doanh bắt đầu vào năm 2003 với Báo cáo môi trường kinh doanh 2004. Báo cáo môi trường kinh doanh đo lường tác động của quy định pháp lý đối với 10 tiêu chí trong vòng đời của doanh nghiệp, bao gồm: Thành lập doanh nghiệp; giải quyết thủ tục cấp giấy phép/cấp phép xây dựng; đăng ký quyền sở hữu tài sản; bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư; tiếp cận tín dụng; nộp thuế; giao thương quốc tế; tiếp cận điện năng; thực hiện hợp đồng; xử lý doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.

Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top