Ngất ngây men rừng đại ngàn Tây Nguyên

26/01/2025 - 08:51 PM
Có dịp đến với Tây Nguyên, du khách không chỉ bị cuốn hút bởi nét văn hóa đặc trưng của vùng đất đỏ bazan, mà còn có cơ hội thưởng thức hương vị men rừng đại ngàn - thức uống không thể thiếu trong các lễ hội của đồng bào dân tộc. Men rừng đậm đà trong những chum rượu cần, thổi bùng lên hào khí của vùng đất nắng gió, mang đậm dấu ấn đời sống văn hóa của người dân Tây Nguyên.
 
Từ ngàn xưa, các lễ hội của người Tây Nguyên, nhất là lễ hội đầu năm mới thường gắn liền với rượu cần. Rượu cần là lễ vật dâng cúng thần linh trong những nghi lễ thiêng và là chất men tạo niềm hưng phấn trong sinh hoạt thế tục. Chỉ với chút men rừng và hương lúa nương Yàng mà khiến cả đại ngàn say nghiêng say ngả theo hồn thiêng sông núi.
 
Rượu cần trở thành nét văn hóa đặc trưng không thể thiếu trong các dịp lễ hội buôn làng, dòng tộc, tiếp khách quý và trong những đêm khan tại bản làng đồng bào dân tộc thiểu số. Vào mỗi dịp lễ hội, âm thanh trầm hùng, mạnh mẽ của cồng chiêng hòa quyện với hương vị đậm đà của rượu cần tạo nên sự kết hợp hoàn hảo, đem lại không khí vừa trang nghiêm, vừa náo nhiệt, lại vừa ấm cúng. Tại đây, đồng bào thường cùng nhau uống rượu cần, nhảy múa theo tiếng cồng chiêng. Rượu cần không chỉ là thức uống, mà còn là một phần của nghi lễ, giúp con người xích lại gần nhau hơn. Văn hóa rượu giản dị của người Tây Nguyên với chất men độc đáo, chẳng giống với loại men ủ nào trên đất nước Việt Nam và trên cả thế giới.
 
Chất liệu làm nên rượu cần là sản vật của đất và nước, núi và rừng Tây Nguyên như gạo nếp, bắp, mì, khoai,… hòa quyện với chất men được cất lên từ tinh túy của một số lá cây, rễ cây rừng quý. Để làm nên những ché rượu cần thơm ngon, đồng bào Tây Nguyên lấy gạo tẻ ngâm nước một ngày, vớt để ráo nước rồi giã thành bột. Sau đó, dùng rễ cây đòng phơi khô, giã nát trộn với bột gạo, cho thêm ít nước đủ để nặn thành những chiếc bánh to bằng nắm tay. Đem phơi bánh một tuần cho thật cứng rồi xâu vào nhau treo cạnh bếp lửa. Cách làm cơm rượu thì không khó lắm, cơm được nấu thật chín rồi đổ ra nia cho nguội. Lấy khoảng nửa cân trấu lúa cho vào trộn lẫn với cơm và men đã bóp vụn, cứ ba cân cơm thì một cân men. Lớp trên cùng của ché phủ một lớp trấu, sau khi đã đậy bằng một tấm lá chuối, lấy tro sạch nhào với nước đắp thành nắp phủ kín miệng ché.
 
Ngất ngây men rừng đại ngàn Tây Nguyên
Chất liệu làm nên rượu cần là sản vật của đất và nước, núi và rừng Tây Nguyên
 
Dù Tây Nguyên có rất đông đồng bào thuộc các dân tộc khác nhau, nhưng có lội qua mấy cánh rừng, đặt chân đến mấy buôn làng, mấy tộc người thì cách làm rượu cần cũng cơ bản giống nhau, chỉ là có những bí quyết khác nhau đôi chút. Nếu người Cơ Ho dùng rễ cây đòng thì người Mạ dùng lá cây kộr làm chất liệu chính chế men và người Chu Ru thì lại sử dụng một loại cây rừng khác. Riêng người M’Nông có bí quyết riêng, đó chính là men rừng (từ một số loại lá, vỏ, rễ và một loài cây rừng đặc biệt) đã tạo ra mùi hương đặc trưng. Khi men rượu được ủ đủ ngày, đủ tháng sẽ được giã nhuyễn, rải đều và trộn cùng với một trong các loại nguyên liệu nêu trên, đã được nấu chín. Sau đó, các nguyên liệu đã phối trộn được cho vào ché để ủ. Gần miệng ché, người M’Nông lót các lớp lá dứa. Đây là phương pháp tạo thêm hương vị đặc trưng cho rượu, sau đó mới đậy nắp ché và quá trình lên men bắt đầu. Các ché rượu trong thời gian ủ được sắp xếp tại những nơi thoáng mát, khô ráo nhất trong nhà. Tùy kích thước ché mà thời gian ủ rượu sẽ khác nhau. Rượu có thời gian ủ từ một năm trở lên sẽ cho hương vị đậm đà, thơm ngọt.
 
Trong các nghi lễ có cúng Yàng (thần tối cao) hoặc các nghi lễ quan trọng khác thì lễ vật nhất thiết không thể thiếu rượu cần, mà rượu mời Yàng về “uống” phải là ché rượu ngon nhất, được ủ trong chiếc ché cổ quý nhất. Trong buổi lễ hôm đó, nghi thức “rách Yàng”, mời Yàng về hưởng nước rượu đầu tiên cũng như nhận những lời khấn cầu của buôn làng là quan trọng nhất. Lúc này, chủ lễ sẽ cầm cần rượu đã cắm vào ché hướng về cõi thần và khấn cầu những điều tốt đẹp nhất cho buôn làng.
 
Rượu cần được uống ngay trong ché, không qua chưng cất hay chắt lọc. Muốn uống rượu cần phải có sự chuẩn bị, thông thường đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên dựng những cây cột tre cao chừng 2-3m, được trang trí thêm những tua chỉ hay hoa văn truyền thống theo tộc người, dùng để buộc rượu thành vòng tròn hay hàng ngang tùy theo tính chất của buổi uống rượu. Các ché rượu được buộc chặt vào từng cột để tránh bị đổ và còn mang ý nghĩa là đường dẫn để các Yàng xuống uống rượu chung vui.
 
Mọi người cùng sống chung một buôn, uống chung một dòng nước, ăn chung một miếng thịt rừng nên uống chung một cần rượu để biết đùm bọc yêu thương nhau. Đó không chỉ là một phương cách ẩm thực mà là một minh triết, chiếc cần rượu duy nhất trên chóe rượu đã trở thành thước đo của sự cộng cảm.
 
Uống rượu cần cũng đòi hỏi sự hiểu biết và nghi thức trang trọng. Từ chiếc cần duy nhất, rượu được chính chủ nhà hay chủ lễ tiam (nếm) trước, khách quý nhất sẽ là người thứ hai cầm cần, cứ thế, chủ khách quay vòng. Trong khi cầm chiếc cần duy nhất ấy, người đang uống phải tuân thủ nguyên tắc: Có thể ngừng, nghỉ để nói chuyện, hát hoặc làm việc khác nhưng tay luôn giữ cần rượu một cách trang trọng, không được bỏ cần ra ngoài, bỏ thõng xuống đất hoặc rời tay khỏi cần”. Qua đó thể hiện một lối ứng xử của cư dân rừng, thể hiện sự tôn kính dòng rượu ngọt Yàng ban và trân quý vẹn đôi đường chủ - khách.
 
Rượu cần nồng nhưng ngọt, hòa quyện rất nhiều hương vị cây trái của núi rừng Tây Nguyên, cho người uống cảm giác lâng lâng, bồng bềnh, chuếnh choáng và đầy cảm xúc. Trong bồng bềnh men say, chỉ có đất trời, cỏ cây mới chứng kiến hết được hơi thở cuộc sống cao nguyên; núi đồi tốt tươi và con người cũng phồn sinh như sắc xanh đồi núi. Già trẻ, trai gái, quây quần quanh đống lửa trại đỏ rực, nhịp bước điệu nhảy theo tiếng cồng chiêng, cùng với men say đại ngàn, say ngả, say nghiêng cùng hồn thiêng sông núi./.
 
Minh Hà
Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top