Những bước tiến của Việt Nam trong đổi mới sáng tạo

08/07/2023 - 10:45 AM

Đổi mới sáng tạo (ĐMST) đang được các nước trên thế giới đánh giá là một trong những chỉ số phát triển quan trọng, là yếu tố định hướng trung tâm phát triển của mỗi quốc gia. Những năm qua, với nhiều nỗ lực trong việc ứng dụng khoa học công nghệ (KH, CN) nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững, Việt Nam đang ngày càng hoàn thiện các yếu tố thúc đẩy ĐMST hiệu quả, tạo ra những bước tiến quan trọng trong hoạt động này.

Những bước tiến của Việt Nam trong đổi mới sáng tạo

Nhận thức được tầm quan trọng của ĐMST với sự phát triển đất nước, đặc biệt là trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, những năm qua, Việt Nam đã có nhiều hoạt động thúc đẩy ĐMST và nằm trong nhóm những quốc gia có quyết tâm cao về ĐMST.

Với định hướng củng cố các yếu tố thúc đẩy ĐMST hiệu quả, những năm gần đây, Việt Nam đang đẩy mạnh hoàn thiện hành lang pháp lý về KH,CN&ĐMST. Theo đó, ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong đó xác định rõ vai trò quan trọng của các trung tâm ĐMST; ngày 11/01/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 36/QĐ-TTg về Kế hoạch tổng thể nâng cao năng suất dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2030; ngày 11/5/2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 569/QĐ-TTg về Chiến lược phát triển KH,CN&ĐMST đến năm 2030… Ngoài ra, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ. Đây là động lực mạnh mẽ cho việc nghiên cứu, ĐMST, đảm bảo hành lang pháp lý đầy đủ, hiệu quả với việc bảo hộ, khai thác và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.

 Những bước tiến của Việt Nam trong đổi mới sáng tạo

Ảnh minh họa 

Từ năm 2016, với nền tảng Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025” do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST đã phát triển mạnh mẽ và từng bước góp phần hình thành các mạng lưới liên kết, hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển của tri thức, KH, CN trong và ngoài nước, góp phần phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam. Minh chứng cho sự phát triển này có thể kể đến việc ứng dụng có chiều sâu mô hình ĐMST trong các hoạt động dịch vụ về y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục đào tạo, kinh doanh, thanh toán, tài chính, logistics, blockchain, AI, kinh tế tuần hoàn và những mô hình đột phá trong giải quyết vấn đề môi trường, phát triển xanh và bền vững. Năm 2022, Việt Nam ra mắt nhiều mạng lưới hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo cấp địa phương và cấp vùng, cho thấy sự lớn mạnh của hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, khơi dậy tinh thần khởi nghiệp trên cả nước.

Một đề án đáng kể nữa là Đề án 1665 "Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025". Đến nay sau gần 5 năm thực hiện, Đề án đã thu hút được gần 2.600 dự án khởi nghiệp của học sinh, sinh viên và trên 4.000 ý tưởng, dự án khởi nghiệp thuộc lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp. Việt Nam có trên 60 quỹ đầu tư mạo hiểm; hơn 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp thành công. Gần 100 trường đại học đã đưa khởi nghiệp thành một môn học. Nhiều cơ sở đào tạo có Quỹ hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp. Có 98 vườn ươm khởi nghiệp trong trường học. Tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh các cấp đã tổ chức hơn 3.000 cuộc thi ý tưởng sáng tạo, thu hút gần 370.000 lượt thanh niên tham gia với gần 14.000 ý tưởng khởi nghiệp; hỗ trợ gần 16.000 dự án với tổng kinh phí gần 700 tỷ đồng. Năm 2022, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo toàn cầu ghi nhận Việt Nam xếp thứ 54, tăng 5 bậc so với năm 2021. Việt Nam cũng đã khẳng định vị thế trong “tam giác vàng” khởi nghiệp của Đông Nam Á, bên cạnh Singapore và Indonesia.

Số lượng bằng sáng chế, đơn sở hữu trí tuệ, bằng phát minh sáng chế của Việt Nam vẫn tiếp tục tăng. Tính đến tháng 11/2022, đã có trên 71 nghìn đơn đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2021; 43.444 văn bằng bảo hộ sở hữu công nghiệp được cấp, tăng 22,1%. Hệ thống bảo hộ, thực thi quyền sở hữu trí tuệ được hoàn thiện, phù hợp với cam kết quốc tế, phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy hoạt động ĐMST.

Hệ thống tiêu chuẩn quốc gia ngày càng được tiếp cận với tiêu chuẩn quốc tế. Cơ sở dữ liệu về công nghệ và chuyên gia bước đầu hình thành với gần 3.000 dữ liệu được cập nhật bao gồm các thông tin về các quỹ đầu tư, tổ chức hỗ trợ, chuyên gia và doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST trên cả nước. Các khu công nghệ cao đã góp phần thu hút các dự án ứng dụng công nghệ cao của các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới.

Nhằm xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ ĐMST, Việt Nam đã tổ chức hệ thống ĐMST, mạng lưới ĐMST quốc gia tập hợp các chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước với số lượng đang ngày càng được mở rộng. Hạ tầng nghiên cứu trong một số lĩnh vực trọng điểm như: Công nghệ sinh học, hóa dầu, vật liệu, tự động hóa, nano, công nghệ tính toán, y học… được tăng cường.

Bộ KH&CN đã chủ trì, phối hợp với Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) và các cơ quan liên quan xây dựng, hoàn thiện Bộ chỉ số ĐMST cấp địa phương gọi tắt là (PII). PII có 51 chỉ số, chia làm 7 trụ cột theo nguyên lý của bộ chỉ số GII (05 trụ cột đầu vào phản ánh những yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội dựa trên KH,CN&ĐMST, PII được kỳ vọng sẽ là công cụ hữu hiệu để mỗi tỉnh/thành phố xác định rõ điểm mạnh, điểm yếu, các yếu tố tiềm năng và các điều kiện cần thiết để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội dựa trên KH,CN&ĐMST. Bên cạnh đó, Bộ KH&CN cùng các đối tác xây dựng bảng phân hạng năng lực công bố về lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI) của các cơ sở nghiên cứu và đào tạo tại Việt Nam. Báo cáo "Chỉ số sẵn sàng AI của Chính phủ (Government AI Readiness Index) năm 2022" do Oxford Insights (Vương quốc Anh) thực hiện cho thấy, Việt Nam xếp hạng 55 toàn cầu (tăng 7 bậc so với với năm 2021) và xếp thứ 6/10 trong ASEAN.

Theo báo cáo của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), Việt Nam có hai năm liên tiếp đứng vị trí thứ 42 (năm 2019, 2020) và thứ 44 trong năm 2021 về ĐMST. Năm 2022, Việt Nam tiếp tục là quốc gia có điểm số cao hơn nhiều so với mức trung bình của các nước cùng nhóm thu nhập khi xếp thứ 48/132 quốc gia, nền kinh tế về chỉ số ĐMST toàn cầu, Việt Nam thuộc nhóm quốc gia đạt được những tiến bộ lớn nhất trong thập kỷ qua và được xem là hình mẫu cho các nước đang phát triển khác trong việc thúc đẩy ĐMST. Trong 12 năm liền, Việt Nam luôn có kết quả ĐMST cao hơn so với mức độ phát triển, cho thấy hiệu quả trong việc chuyển các nguồn lực đầu vào thành kết quả đầu ra ĐMST.

Có thể thấy, những kết quả đạt được trong bước tiến của Việt Nam về ĐMST đã góp phần khẳng định những định hướng chiến lược đúng đắn và các biện pháp cụ thể phù hợp của Đảng, Nhà nước trong thúc đẩy ĐMST ở Việt Nam hiện nay.

Kết quả ĐMST thông qua KH, CN đã góp phần vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Theo Tổng cục Thống kê, bình quân giai đoạn 2016-2019, tốc độ tăng GDP đạt 6,78%, cao hơn 0,87 điểm phần trăm so với mức tăng bình quân 5,91%/năm của giai đoạn 2011-2015, đồng thời đạt mục tiêu tăng trưởng 6,5%-7%/năm của Kế hoạch 5 năm 2016-2020. Riêng năm 2020, tăng trưởng kinh tế đạt 2,91%, tuy là mức tăng thấp nhất của các năm trong giai đoạn 2011-2020, nhưng là mức tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất thế giới. GDP năm 2022 tăng 8,02% so với năm trước, đạt mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2011-2022 do nền kinh tế khôi phục trở lại.

Quy mô kinh tế ngày càng mở rộng. Theo giá hiện hành, quy mô GDP năm 2020 đạt 6.293,1 nghìn tỷ đồng (tương đương 271,2 tỷ USD), gấp 1,5 lần quy mô GDP năm 2015; Năm 2022 đạt 9.513,3 nghìn tỷ đồng (tương đương 409 tỷ USD).

Tăng trưởng kinh tế dần dịch chuyển sang chiều sâu, thể hiện ở mức đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng của nền kinh tế tăng lên. Trong giai đoạn 2016-2020, đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế đạt bình quân 45,72%, cao hơn nhiều so với mức bình quân 32,84% của giai đoạn 2011-2015.

Năng suất lao động (NSLĐ) có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm. Tính theo giá so sánh năm 2010, bình quân giai đoạn 2016-2020, NSLĐ tăng 5,79%/năm, cao hơn so với tốc độ tăng bình quân 4,27%/năm của giai đoạn 2011-2015 và cao hơn mục tiêu tăng trưởng bình quân 5%/năm trong giai đoạn 2016-2020. Năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2022 theo giá so sánh tăng 4,8% do trình độ của người lao động được cải thiện (tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2022 đạt 26,2%, cao hơn 0,1 điểm phần trăm so với năm 2021).

Giải pháp đẩy mạnh đổi mới sáng tạo ở Việt Nam trong thời gian tới

Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình ĐMST ở Việt Nam vẫn còn nhiều thách thức: ĐMST và phát triển KH, CN chưa thực sự là động lực để nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; Đầu tư xã hội, nhất là đầu tư từ doanh nghiệp cho KH, CN còn thấp; Năng lực nghiên cứu ứng dụng của các viện nghiên cứu, trường đại học còn khiêm tốn; Mối liên kết giữa nghiên cứu với đào tạo, giữa nghiên cứu với thị trường và doanh nghiệp còn yếu.

Chính vì vậy, thời gian tới, vẫn tiếp tục coi ĐMST là một ưu tiên của quốc gia, các chỉ số ĐMST làm công cụ đo lường và đánh giá hiệu quả hoạt động của nền kinh tế. Việt Nam kỳ vọng cùng với KH, CN, hoạt động thúc đẩy ĐMST tiếp tục tạo nên những đột phá mới trên cơ sở nền tảng tổ chức triển khai đồng bộ, hiệu quả Chiến lược phát triển KH,CN&ĐMST đến năm 2030. Mục tiêu cụ thể Chiến lược đặt ra là: Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế ở mức trên 50%; đến năm 2030, tỉ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao trong các ngành chế biến, chế tạo đạt tối thiểu 45%; đóng góp vào chỉ số phát triển con người (HDI) duy trì trên 0,7. Chỉ số ĐMST toàn cầu (GII) không ngừng được cải thiện, thuộc nhóm 40 quốc gia hàng đầu thế giới. Đến năm 2025, đầu tư cho KH, CN đạt 1,2% - 1,5% GDP, trong đó tổng chi quốc gia cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt 0,8% - 1% GDP và đóng góp của xã hội cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ chiếm 60% - 65%. Đến năm 2030, đầu tư cho KH, CN đạt 1,5% - 2% GDP, trong đó tổng chi quốc gia cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt 1% - 1,2% GDP và đóng góp của xã hội cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ chiếm 65% - 70%.

Đến năm 2025, nhân lực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (quy đổi toàn thời gian) đạt 10 người trên một vạn dân, đến năm 2030 đạt 12 người trên một vạn dân.

Đến năm 2025, có 25 - 30 tổ chức KH,CN được xếp hạng khu vực và thế giới, đến năm 2030 có 40 - 50 tổ chức KH, CN được xếp hạng khu vực và thế giới. Đến năm 2030, số doanh nghiệp đạt tiêu chí doanh nghiệp KH,CN và số doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST tăng hai lần so với năm 2020; tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động ĐMST đạt 40% trong tổng số doanh nghiệp.

Số lượng công bố quốc tế tăng trung bình 10%/năm. Số lượng đơn đăng ký sáng chế và văn bằng bảo hộ sáng chế tăng trung bình 16% - 18%/năm; tỷ lệ sáng chế được khai thác thương mại đạt 8% - 10% số sáng chế được cấp văn bằng bảo hộ. Phát triển được hạ tầng chất lượng quốc gia (NQI) đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế mạnh mẽ về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, thuộc nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới.

Bên cạnh đó, Chiến lược cũng đưa ra định hướng hoạt động ĐMST trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, giao thông, ngành dịch vụ và các vùng.

Để đạt những mục tiêu trên, trong thời gian tới Việt Nam cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp sau:

Một là, đổi mới cơ chế hoạt động KH,CN&ĐMST, nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về KH,CN&ĐMST. Theo đó, Sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật về KH,CN, các luật liên quan để phù hợp với những yêu cầu mới đặt ra trong phát triển KH,CN&ĐMST. Thúc đẩy mạnh mẽ ĐMST gắn với KH,CN, nâng cao hiệu quả phối hợp đồng bộ trong xây dựng và thực thi các cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển KH,CN&ĐMST.

Hai là, xây dựng hệ thống ĐMST quốc gia với việc phát triển hệ sinh thái ĐMST quốc gia liên kết chặt chẽ với khu vực và thế giới. Phát triển các hệ sinh thái ĐMST trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ gắn với các chuỗi giá trị nội địa và toàn cầu, các cụm liên kết ngành. Phát triển hệ thống các trung tâm ĐMST quốc gia, các trung tâm ĐMST ngành, vùng, các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo. Triển khai mạnh mẽ các nền tảng ĐMST mở, mạng lưới ĐMST mở.

Ba là, thu hút, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư cho KH,CN&ĐMST. Theo đó, bảo đảm chi cho KH,CN&ĐMST từ 2% trở lên trong tổng chi ngân sách Nhà nước hằng năm và tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp KH, CN. Hoàn thiện cơ chế đối tác công tư, hành lang pháp lý cho đầu tư thiên thần, các quỹ đầu tư mạo hiểm, các quỹ đầu tư cộng đồng, các nền tảng công nghệ số huy động vốn đầu tư nhằm tạo thêm các nguồn lực đầu tư cho KH,CN&ĐMST.

Bốn là, chú trọng xây dựng một số viện nghiên cứu thuộc các ngành, vùng kinh tế trở thành các trung tâm nghiên cứu ứng dụng và ĐMST phục vụ cho các ưu tiên phát triển kinh tế - kỹ thuật của ngành và vùng kinh tế. Triển khai các chính sách, giải pháp để đại học thực sự trở thành các trung tâm nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, là nguồn cung tri thức cho các hoạt động ĐMST. Phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh và một số nhóm nghiên cứu trình độ quốc tế; học viên cao học và nghiên cứu sinh là lực lượng quan trọng thực hiện nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; gắn kết đào tạo sau đại học với các đề tài, dự án nghiên cứu. Tập trung phát triển một số tổ chức KH,CN đạt trình độ khu vực và thế giới.

Năm là, phát triển nguồn nhân lực KH,CN&ĐMST có trình độ và năng lực sáng tạo cao, đáp ứng nhu cầu của khu vực doanh nghiệp. Tạo kênh kết nối giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp để thống nhất nhu cầu về nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và ĐMST của doanh nghiệp. Đẩy mạnh xã hội hóa và đa dạng hóa các chương trình đào tạo cho nhân lực quản trị công nghệ và quản lý cho doanh nghiệp ở các trình độ/cấp độ khác nhau.

Sáu là, phát triển và khai thác có hiệu quả hạ tầng KH,CN&ĐMST. Triển khai mạnh mẽ hạ tầng chất lượng quốc gia theo hướng tập trung, thống nhất từ trung ương đến địa phương, đồng bộ, hiện đại và gắn với công nghiệp 4.0, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nâng cao năng suất dựa trên nền tảng KH,CN&ĐMST. Tiếp tục đầu tư nâng cao năng lực của hệ thống thông tin KH,CN&ĐMST quốc gia. Hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về KH,CN&ĐMST trên cơ sở xây dựng và vận hành các nền tảng số kết nối, tăng cường liên kết hiệu quả giữa các trung tâm thông tin KH,CN của các bộ, ngành, địa phương, trường đại học, viện nghiên cứu.

Bảy là, thúc đẩy hoạt động KH,CN&ĐMST trong doanh nghiệp. Theo đó, Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao khả năng tiếp cận thông tin công nghệ trong nước và quốc tế. Xây dựng, cung cấp các công cụ và dịch vụ phân tích thông tin sáng chế và dự báo xu hướng phát triển công nghệ để định hướng cho hoạt động KH,CN&ĐMST.

Tám là, chủ động đẩy mạnh hợp tác, hội nhập quốc tế về KH,CN&ĐMST nhằm học hỏi, chuyển giao các mô hình quản lý về KH,CN&ĐMST tiên tiến phục vụ nâng cao năng lực của bộ máy quản lý các cấp. Chủ động tham gia đóng góp có hiệu quả vào xây dựng khuôn khổ, luật pháp quốc tế về KH,CN&ĐMST.

Chín là, tăng cường các hoạt động tôn vinh, truyền thông, nâng cao nhận thức về KH,CN&ĐMST thông qua việc tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động truyền thông về KH,CN&ĐMST. Đa dạng hóa các loại hình truyền thông trên nền tảng số và mạng xã hội. Xây dựng các hình thức trưng bày, bảo tàng KH,CN&ĐMST phục vụ các đối tượng trong xã hội trên cả nước./.

ThS. Triệu Văn Lượng

Trường Chính trị Hoàng Đình Dong, tỉnh Cao Bằng


Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top