Những kết quả đạt được sau 5 năm thực hiện Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp

03/06/2019 - 04:19 PM
Thực hiện Đề án, hàng loạt thể chế, chính sách mới về nông nghiệp, nông dân, nông thôn được ban hành, đã kịp thời bổ sung nguồn lực cho phát triển các lĩnh vực then chốt của ngành nông nghiệp như: Chính sách tín dụng, thuế; Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp công nghệ cao với nhiều ưu đãi cho nông nghiệp, nông thôn; Hỗ trợ phát triển thủy sản; Chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa; Bảo vệ và phát triển rừng gắn với xóa đói giảm nghèo ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số; Sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nông, lâm nghiệp…  Đây chính là đòn bẩy quan trọng tạo ra những chuyển biến cho toàn ngành nông nghiệp nói chung và sự phát triển của doanh nghiệp (DN) trong lĩnh vực nông nghiệp nói riêng trong 5 năm qua. Nhờ đó, các DN nhà nước, công ty nông, lâm nghiệp được sắp xếp, chuyển đổi và hoạt động có hiệu quả hơn. Lực lượng DN nông nghiệp ngày càng lớn mạnh và đang trở thành nòng cốt trong chuỗi giá trị nông sản. Theo báo cáo sơ kết 5 năm tái cơ cấu ngành nông nghiệp của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) được công bố vào tháng 11/2018, tính đến tháng 9/2018, tổng số DN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, kinh doanh nông sản là trên 49,6 nghìn DN, chiếm 8% tổng số DN cả nước, trong đó có trên 8,6 nghìn DN trực tiếp sản xuất, tăng 2,5 lần so với năm 2012. Trong giai đoạn này, có 13 nghìn hợp tác xã nông nghiệp và trên 62,5 nghìn tổ hợp tác được tổ chức lại và thành lập mới theo Luật Hợp tác xã 2012. Kinh tế hộ tiếp tục được hỗ trợ và tổ chức theo hướng quy mô lớn hơn. Kinh tế trang trại phát triển nhanh, đến cuối năm 2017, cả nước khoảng 35,5 nghìn trang trại, tăng 50,8% so với năm 2012.
 
Những kết quả đạt được sau 5 năm thực hiện Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp
 
Ảnh minh họa, nguồn Internet

Giai đoạn 2013-2017, ngành nông nghiệp duy trì được tăng trưởng với mức trung bình đạt 2,5%/năm. Tuy nhiên con số này vẫn thấp hơn mục tiêu đề ra là tối thiểu 3%/năm, do trong hai năm 2016 và 2017 hoạt động sản xuất nông nghiệp trong nước chịu thiệt hại nặng nề của biến đổi khí hậu, thiên tai. Chất lượng tăng trưởng ngày càng được cải thiện. Tỷ lệ giá trị gia tăng trong tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp đã tăng từ 63,9% năm 2012 lên gần 80% của 9 tháng đầu năm 2018.
 
Cũng theo Báo cáo của Bộ NN&PTNT, cơ cấu của ngành nông nghiệp chuyển dịch theo hướng hiệu quả hơn, chuyển tăng trưởng dựa vào tăng số lượng sang chất lượng và giá trị gia tăng; phát huy lợi thế, phù hợp với nhu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Từng lĩnh vực, sản phẩm có lợi thế và thị trường thuận lợi đã tăng nhanh cả về diện tích, năng suất, sản lượng, chất lượng và tỉ trọng đóng góp cho tăng trưởng. Trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp, tỷ trọng giá trị sản xuất thủy sản đã tăng từ 22,48% năm 2012 lên 24,95% năm 2017; tương tự, giá trị sản xuất lâm nghiệp tăng từ 2,69% lên 3,79%. Cũng trong giai đoạn 2012-2017, tỷ trọng giá trị gia tăng thủy sản tăng từ 18,8% lên 20,5%, lâm nghiệp tăng từ 3,8 lên 4,5%.
 
Cùng với đó, ngành nông nghiệp trong nước được chứng kiến sự xuất hiện ngày càng nhiều mô hình hợp tác, liên kết sản xuất, bảo quản, chế biến gắn với tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị, mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt. Tính đến tháng 9/2018, cả nước đã hình thành hơn 1.000 mô hình chuỗi với trên 1.400 sản phẩm và gần 3.200 địa điểm bán sản phẩm thực hiện tiêu chuẩn sản xuất tốt, an toàn thực phẩm, đáp ứng yêu cầu thị trường.
 
Trong lĩnh vực trồng trọt, Bộ NN&PTNT và các địa phương đã tiến hành rà soát quy hoạch, chuyển đổi mạnh cơ cấu các loại cây trồng chủ lực phù hợp với lợi thế của các vùng, miền, địa phương, nhu cầu thị trường và điều kiện biến đổi khí hậu. Nhờ đó, qua 5 năm đã chuyển đổi khoảng 200.000 ha trồng lúa kém hiệu quả sang các cây trồng khác có hiệu quả cao hơn. Đồng thời, tăng cường chuyển đổi cơ cấu giống, đẩy mạnh thâm canh phòng trừ sâu bệnh, ứng dụng khoa học kỹ thuật và cơ giới hóa để tăng năng suất, chất lượng và giảm chi phí sản xuất. Qua đó, sản lượng, chất lượng các loại cây trồng chủ lực, có lợi thế tăng mạnh, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước và tăng khả năng cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu. Sau 5 năm, giá trị tăng thêm của lĩnh vực trồng trọt tăng 7,8%, thu nhập trên 1 ha tăng 4,8%. Trong đó, cây ăn quả đóng góp cho tăng trưởng trồng trọt từ mức 12% năm 2012 lên gần 32% năm 2017; các cây công nghiệp có giá trị cao đóng góp 43%, tăng gần 16%.
 
Trong lĩnh vực chăn nuôi, việc tăng cường ứng dụng công nghệ cao hiện đại đã giúp cho đàn giống được cải thiện đáng kể, nhiều giống vật nuôi mới có năng suất, chất lượng cao với kỹ thuật tiên tiến đã được đưa vào sản xuất phổ biến. Nhiều địa phương, doanh nghiệp đã tổ chức liên kết theo chuỗi sản phẩm từ sản xuất đến thị trường, dưới các hình thức chăn nuôi gia công, hợp tác doanh nghiệp nông dân cùng làm. Sau 5 năm thực hiện cơ cấu lại, sản lượng thịt hơi các loại tăng 30%; thịt gia cầm tăng bình quân 17%; thịt lợn, thịttăng 12,7%; thịt dê, cừu tăng 14%, sữa tươi tăng 47%; trứng gia cầm tăng 18,7%...
 
Trong lĩnh vực thuỷ sản, đã chú trọng tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, thực hành nuôi tốt, bảo đảm an toàn thực phẩm; tổ chức lại sản xuất trên biển và tăng cường ứng dụng tiến bộ kỹ thuật bảo quản, đánh bắt hải sản. Trong 5 năm qua, tổng sản lượng thủy sản tăng từ 5,92 triệu tấn lên 7,2 triệu tấn. Tốc độ tăng giá trị sản xuất đạt 4,7%/năm, giá trị tăng thêm đạt 4,3%/năm. Giá trị trên 1 ha mặt nước nuôi trồng thủy sản năm 2017 đạt 206,8 triệu tấn, tăng gấp 1,4 lần so với năm 2012.
 
Lĩnh vực lâm nghiệp cũng chuyển đổi từ rừng trồng gỗ nhỏ sang rừng gỗ lớn; phát triển hợp tác, liên kết theo chuỗi giá trị và nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm gỗ qua chế biến. Sản lượng gỗ rừng trồng đã đáp ứng 80% nhu cầu trong nước về nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, tăng 18%; tỷ lệ che phủ rừng tăng từ 40,7% lên 41,45%. Giá trị sản xuất lâm nghiệp tăng 7,29%/năm, giá trị tăng thêm tăng 6,3%/năm.
 
Một kết quả nổi bật khác của quá trình cơ cấu lại nông nghiệp thời gian qua đó là thị trường tiêu thụ nông, lâm, thủy sản được mở rộng nhờ những nỗ lực đàm phán, cũng như tháo gỡ các rào cản kỹ thuật trong thương mại bên cạnh việc nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Đến nay, sản phẩm nông, lâm, thủy sản Việt Nam đã có mặt ở gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Riêng xuất khẩu, nông sản Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 2 Đông Nam Á và thứ 15 thế giới. Năng lực cạnh tranh và vị thế của nông nghiệp Việt Nam ngày càng được nâng cao. Kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh trong những năm qua. Giai đoạn 2013-2017, tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng nông, lâm, thủy sản đạt 157,49 tỷ USD, bình quân đạt 31,5 tỷ USD/năm, tăng 51,2% so với bình quân giai đoạn 5 năm trước. Theo số liệu Tổng cục Thống kê, năm 2018 kim ngạch xuất khẩu mặt hàng nông, lâm, thủy sản đạt 30,8 tỷ USD. Những mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu từ 3 tỷ USD trở lên là tôm, rau quả, gạo, cà phê… Riêng Quý I/2019 kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông, lâm, thủy sản đạt 7,8 tỷ USD.
 
Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu cũng được chuyển đổi theo hướng tăng nhanh tỷ trọng các sản phẩm chất lượng cao, có lợi thế và sản phẩm đã qua chế biến nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản xuất khẩu. Cụ thể, tăng tỷ trọng các ngành, sản phẩm có lợi thế, có thị trường như: Thủy sản (nhất là tôm nước lợ), rau, hoa, quả, các loại cây công nghiệp giá trị cao, đồ gỗ và lâm đặc sản…, giảm các ngành hàng, sản phẩm đang có xu hướng tăng cung. Nhờ đó, các mặt hàng nông sản có chất lượng ngày càng được cải thiện, tiếp tục khẳng định được vị thế và khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, bảo đảm đứng vững khi hội nhập quốc tế.
 
Kết quả đạt được trong quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp đã góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Tính đến hết tháng 10/2018, cả nước có 3.597 (đạt 40,3%) đạt chuẩn và có 55 đơn vị cấp huyện hoàn thành xây dựng nông thôn mới, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra.
 
Tuy đạt nhiều kết quả ấn tượng song sau 5 năm tái cơ cấu, ngành nông nghiệp vẫn còn đứng trước nhiều rủi ro, thách thức. Trong khi năng lực sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng nhanh thì thị trường tiêu thụ diễn biến khó lường. Công tác dự báo cung, cầu còn hạn chế nên vẫn còn tồn tại câu chuyện nông sản “được mùa, mất giá”, ảnh hưởng đến sản xuất, thu nhập và đời sống của người dân. Cùng với đó, năng suất lao động nông nghiệp, chất lượng và khả năng cạnh tranh của nhiều loại nông sản mặc dù đã được cải thiện nhiều nhưng vẫn còn thấp. Việc đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất còn chậm; kinh tế hộ nhỏ lẻ vẫn chiếm tỉ trọng cao và đang bộc lộ những hạn chế, làm cản trở quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp; sản xuất quy mô lớn, theo chuỗi giá trị chưa trở thành chủ đạo. Thu hút nguồn lực xã hội cho nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế; tỉ trọng vốn đầu tư xã hội vào ngành chỉ khoảng 5,8-6,0% của cả nước; đầu tư theo hình thức đối tác công tư mới chỉ ở quy mô nhỏ, thí điểm.
 
Những kết quả đạt được sau 5 năm thực hiện Đề án mới chỉ là bước đầu, công cuộc tái cơ cấu ngành nông nghiệp vẫn còn bước tiếp trên hành trình dài, do đó Việt Nam cần tập trung nhiều hơn nữa để ngành nông nghiệp thực sự phát triển, tạo ra sự tăng trưởng cao hơn, góp phần phát triển kinh tế đất nước, nâng cao đời sống người dân. Từ nay đến năm 2020, ngành nông nghiệp sẽ tiếp tục cơ cấu lại, hướng tới xây dựng nền nông nghiệp thông minh, hội nhập quốc tế, thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới phồn vinh và văn minh; cải thiện nhanh hơn đời sống của nông dân, góp phần xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, sinh thái, góp phần bảo đảm an ninh quốc phòng. Mục tiêu đến năm 2020, tốc độ tăng giá trị gia tăng đạt tối thiểu 3%/năm; năng suất lao động tăng từ 3,5%/năm; thu nhập của cư dân nông thôn tăng ít nhất 1,8 lần so với năm 2015; có trên 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; 15.000 hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp hoạt động có hiệu quả; tỷ lệ che phủ rừng đạt 42%.
 
Để đạt được kết quả trên, những bước đi tiếp theo của ngành nông nghiệp là sẽ tiếp tục rà soát và xây dựng 3 trục sản phẩm: Nhóm sản phẩm chủ lực quốc gia; nhóm sản phẩm chủ lực cấp tỉnh; nhóm sản phẩm theo mô hình “Mỗi xã một sản phẩm” để có chiến lược và giải pháp phát triển phù hợp. Đồng thời, các Bộ, ngành liên quan sẽ phối hợp cùng các địa phương tổ chức lập quy hoạch phát triển hạ tầng nông nghiệp; xác định kế hoạch, lộ trình và nguồn lực đầu tư hạ tầng cũng như phát triển các nguồn sản phẩm./.
 
 Ngọc Linh

Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top