Phát triển thị trường tín chỉ carbon trong ngành lúa gạo: Triển vọng và thách thức

03/10/2024 - 08:42 AM
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề ra mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ có 1 triệu ha lúa phát thải carbon thấp, đồng thời kỳ vọng ngành lúa gạo Việt Nam sẽ mang về 2.500 tỷ đồng mỗi năm từ việc bán tín chỉ carbon…

Từ khóa: ngành lúa gạo, tín chỉ carbon, giảm phát thải, đề án

Tiềm năng giảm phát thải và tín chỉ carbon từ cây lúa

Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (Bộ NNPTNT), mỗi năm hoạt động sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam thải ra môi trường khoảng 80 triệu tấn khí thải CO2 và khí metan (CH4), chiếm trên 30% tổng lượng khí CO2 toàn quốc. Trong đó, sản xuất lúa nước chiếm khoảng 50% tổng lượng phát thải trong nông nghiệp. Với lượng phát thải khí nhà kính cao từ canh tác lúa gạo, Việt Nam đang tìm kiếm giải pháp để giảm thiểu ảnh hưởng này đối với môi trường. 

Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chuyên canh chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030” (Đề án) của Bộ NNPTNT đã đưa ra nhiều mục tiêu cho ngành sản xuất lúa gạo. Đó là giảm 30% chi phí đầu vào, góp phần giảm 20% chi phí sản xuất lúa cho các hộ nông dân, tỷ suất lợi nhuận của người trồng lúa tăng 50%; góp phần giảm 10% lượng khí nhà kính phát thải.

 
Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ có 1 triệu ha lúa phát thải carbon thấp

Theo kế hoạch của Đề án, đến năm 2025, 13 tỉnh, thành phố trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long trồng 180.000 ha lúa phát thải thấp và thí điểm cấp tín chỉ carbon cho vùng đạt chuẩn. Đến năm 2030, vùng mở rộng thêm 820.000 ha lúa phát thải carbon thấp. Mục tiêu bán tín chỉ carbon của ngành lúa gạo đạt 2.500 tỷ đồng/năm…

Đề án sẽ triển khai nhiều công việc đồng bộ từ hạ tầng, phương thức canh tác, cơ giới hóa… đồng thời, tổ chức lại sản xuất, tăng cường liên kết giữa người dân, hợp tác xã, doanh nghiệp, thương lái để giảm rủi ro về giá cả, thị trường. Theo ước tính, Đề án sẽ giúp giá trị của ngành lúa gạo Việt Nam tăng thêm khoảng 21.000 tỷ đồng/năm (tương đương khoảng 840 triệu USD/năm) so với trước đây. Con số này bao gồm: Giảm chi phí sản xuất lúa gạo (9.500 tỷ đồng/năm); tăng giá bán sản phẩm (7.000 tỷ đồng/năm); bán tín chỉ carbon (khoảng 2.500 tỷ đồng/năm); tận dụng phế phụ phẩm (2.000 tỷ đồng/năm). Đặc biệt, Bộ NNPTNT cho biết, đây là chương trình sản xuất lúa giảm phát thải quy mô lớn nhất thế giới từ trước đến nay.

Ngân hàng Thế giới ước tính, vùng chuyên canh lúa chất lượng cao 1 triệu ha ở ĐBSCL khi hình thành có thể giảm 10 triệu tấn carbon. Đặc biệt, với Đề án này, Ngân hàng Thế giới cũng đã cam kết mua tín chỉ carbon ở mức 10 USD/tấn CO2. Tính ra, 1ha lúa có thể thu về 100 USD từ việc bán tín chỉ carbon và 1 triệu ha có thể thu về khoảng 100 triệu USD/năm.

Nghiên cứu do Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) thực hiện cho thấy, nếu thực hiện trồng lúa giảm phát thải carbon trên 1,9 triệu ha lúa, tiềm năng giúp ngành lúa gạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long vào năm 2030 giảm phát thải khí nhà kính là gần 11 triệu tấn CO2 quy đổi mỗi năm. Ngoài ra, việc tái sử dụng 70% lượng rơm rạ cho các hình thức khác sẽ giảm khoảng 50% lượng phát thải khí nhà kính so với việc đốt rơm rạ.

Theo các chuyên gia, mục tiêu kép của Đề án là giúp người nông dân giảm thiểu lượng khí nhà kính phát thải. Nếu thực hành đúng, bà con sẽ có thêm một nguồn thu nữa từ tín chỉ carbon. Điều này không chỉ giúp tăng thu nhập cho nông dân mà còn giúp sản phẩm gạo của Việt Nam có được sự ưu tiên hơn khi xuất khẩu ra các thị trường trên thế giới. Bên cạnh đó, việc thực hiện thành công Đề án sẽ giúp nâng tầm lúa gạo của Việt Nam.

Thực tế cho thấy, trồng lúa giảm phát thải, bán được tín chỉ carbon là hướng đi đúng đắn của ngành nông nghiệp; góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất thông minh, thích ứng biến đổi khí hậu, giảm tác động đến môi trường; giúp sản xuất bền vững và nâng cao vị thế của gạo Việt Nam trên thị trường trong thời gian tới. Hiện nay, Bộ NNPTNT đang tổ chức triển khai 7 mô hình thí điểm ở 5 tỉnh ĐBSCL (Cần Thơ, Kiên Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Đồng Tháp), thời gian triển khai thực hiện trong 3 vụ liên tiếp (hè thu 2024 - thu đông 2024 - đông xuân 2024 - 2025 hoặc thu đông 2024 - đông xuân 2024- 2025 - hè thu 2025).

Theo đánh giá sơ bộ của Bộ NNPTNT, các mô hình đã mang lại những kết quả tích cực bước đầu: Tổng chi phí đầu vào cho sản xuất giảm từ 10%-15% khi giảm được lượng giống, phân bón và nước tưới. Đáng chú ý, năng suất lúa thí điểm đạt 6,13-6,51 tấn/ha so với mức 5,89 tấn/ha của mô hình đối chứng, lợi nhuận đạt 21-25,8 triệu đồng/ha, cao hơn 1,3-6,2 triệu đồng/ha…. Bên cạnh đó, việc thí điểm sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp đã giúp giảm 2 tấn CO2/ha so với mô hình đối chứng lấy rơm rạ khỏi đồng ruộng và giảm 12 tấn CO2/ha so với mô hình đối chứng ngập liên tục áp dụng phương thức vùi rơm rạ sau khi thu hoạch. Về đầu ra cũng có tín hiệu đáng mừng khi nhiều doanh nghiệp đã cam kết thu mua toàn bộ sản phẩm lúa gạo được sản xuất tại các mô hình thí điểm.

Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan cho biết, Đề án "Phát triển bền vững 1 triệu héc ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030” của Chính phủ hướng tới khắc phục tính manh mún, nhỏ lẻ, tự phát trong sản xuất, kinh doanh lúa gạo vùng ĐBSCL; xác định yêu cầu tiên quyết "chuyên nghiệp hóa ngành hàng lúa gạo”, thông qua việc hình thành đội ngũ nông dân chuyên nghiệp, cập nhật tri thức, kỹ năng cho nông dân; nâng cao năng lực quản trị, khả năng hợp tác của hợp tác xã nông nghiệp, đủ năng lực liên kết bền vững với doanh nghiệp. Trên cơ sở thí điểm thành công, mô hình này tại ĐBSCL sẽ được mở rộng ra toàn quốc, hướng tới mục tiêu đưa "Phát triển xanh, giảm phát thải, chất lượng cao” trở thành thương hiệu của lúa gạo Việt Nam.

Vẫn còn nhiều thách thức

Theo Bộ NNPTNT, để hướng đến tăng trưởng xanh, được chi trả tín chỉ carbon nhờ phát thải thấp, vùng 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao của ĐBSCL sẽ phải thực hiện giảm lượng lúa giống còn 80 kg/ha, giảm lượng phân bón hóa học 30%, thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc hóa học 40%, giảm lượng nước tưới trên 30%... Đồng thời, tỉ lệ diện tích ứng dụng quy trình sản xuất tốt (GAP) và tương đương được công nhận đạt 100%; tỉ lệ ứng dụng công nghệ cao, công nghệ số đạt trên 50%; giảm phát thải khí nhà kính trên 20%; rơm rạ được thu gom khỏi đồng ruộng và được tái sử dụng, chế biến đạt 100% diện tích thu hoạch. Để đáp ứng các tiêu chí trên là một thách thức lớn, đòi hỏi phải thay đổi một cách căn cơ về cách làm.

Bộ NNPTNT đưa ra nhận định, việc xây dựng vùng nguyên liệu lúa chất lượng cao, giảm phát thải khí nhà kính trong tình hình hiện nay là vấn đề khó, đòi hỏi có sự tham gia của các ngành, các cấp và các thành phần kinh tế. Đặc biệt, vấn đề xây dựng chuỗi liên kết giá trị từ sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản giữ vai trò quan trọng, đòi hỏi cần có sự tham gia, phối hợp của các bên. Trong đó, Nhà nước giữ vai trò quản lý, định hướng xây dựng quy hoạch vùng nguyên liệu và xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích phát triển hệ thống logistic, phát triển thương hiệu theo hướng "lúa sinh thái”, "lúa phát thải thấp”.

Đánh giá về những khó khăn khi thực hiện Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, giảm phát thải, Bộ NNPTNT cho biết, do Việt Nam là quốc gia đầu tiên trên thế giới thực hiện giảm phát thải trên lúa với quy mô lớn nên việc triển khai có nhiều khó khăn, các hoạt động, nội dung đều mới và chưa có tiền lệ tham khảo. Bên cạnh đó, số hộ tham gia trong vùng tham gia liên kết thông qua các hợp tác xã, tổ hợp tác và liên kết với doanh nghiệp còn hạn chế; Kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất lúa chất lượng cao và phát thải thấp của các địa phương chưa đồng bộ, cần tiếp tục đầu tư trong thời gian tới; Số doanh nghiệp tham gia liên kết với các hợp tác xã, tổ hợp tác để đầu tư và bao tiêu sản phẩm còn hạn chế…

Theo Trung tâm Nông nghiệp hữu cơ (Học viện Nông nghiệp Việt Nam), điều kiện sản xuất là khó khăn khi triển khai thực hiện đề án. Thứ nhất, do diện tích canh tác của mỗi hộ nông dân ở Việt Nam còn nhỏ, thiếu tính liên kết. Thứ hai, việc canh tác áp dụng đồng bộ theo các biện pháp kỹ thuật như thời vụ gieo trồng, làm đất, bón phân, quản lý nước, thu hoạch và bảo quản, xử lý rơm rạ… đều yêu cầu sự đồng bộ về cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị. Thứ ba là vấn đề chi phí như: Chi phí đầu tư để đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, tập huấn, đo đạc, đánh giá mức giảm phát thải và xác nhận tín chỉ carbon, cũng cần sự quan tâm của nhà nước và sự hỗ trợ của các bên liên quan.

Bên cạnh đó, một trong những khó khăn nữa khi thực hiện đề án là việc khuyến khích tuần hoàn thu gom và chế biến tái sử dụng rơm rạ. Tuy nhiên, với một khối lượng rơm rạ lớn sau thu hoạch lúa, thời gian chuyển vụ ngắn, cần phải có những giải pháp để chế biến và tái sử dụng sao cho hiệu quả. Lượng rơm rạ mang ra khỏi đồng ruộng cũng cần tính toán để bổ sung cho đất, duy trì và cải thiện sức khỏe đất...

Ngoài ra, việc bán tín chỉ carbon cũng đang gặp một số rào cản. Để bán được tín chỉ carbon, cần phải có đơn vị chứng nhận, đo đếm, kiểm kê. Người nông dân khó có thể thực hiện được, cần có những đơn vị, tổ chức tham gia vào quá trình này. Với diện tích mỗi nông hộ là nhỏ và số nông hộ đông, việc tạo sự đồng thuận để tổ chức sản xuất theo quy trình và việc phân bổ lợi nhuận từ tín chỉ carbon còn khó khăn, chưa có cơ chế cụ thể…

Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam đang phối hợp với các chuyên gia của Quỹ Chi trả tài chính carbon (TCAFT), Ngân hàng Thế giới (WB) và các cơ quan của Việt Nam để xác định được chi phí hình thành nên 1 tín chỉ carbon trồng lúa, nhưng vẫn chưa xác định được chính xác giá 1 tín chỉ carbon là bao nhiêu.

Theo các chuyên gia, để ngành lúa gạo có thể bán được tín chỉ carbon trong thời gian tới, cần hoàn thiện khung pháp lý cho vận hành thị trường carbon nội địa và quốc tế; xây dựng hệ thống đăng ký tài khoản phát thải và giảm phát thải quốc gia và quốc tế, trong đó ưu tiên thử nghiệm cho lĩnh vực lâm nghiệp; ưu tiên các dự án tạo tín chỉ carbon; xây dựng nhiều dự án giảm phát thải, tránh phát thải và hấp thụ khí nhà kính để tiếp cận các nguồn tài chính dựa trên kết quả (RBCF), như: Quỹ Tài chính carbon chuyển đổi (TCAF), Liên minh Giảm phát thải thông qua tăng cường tài chính lâm nghiệp (LEAF), Quỹ Khí hậu xanh (GCF); cho phép thử nghiệm trao đổi tín chỉ carbon trên sàn giao dịch tự nguyện...

 
Tiến Long
Tài liệu tham khảo:
  1. Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chuyên canh chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030” của Bộ NNPTNT.
  2. Báo cáo tiến độ triển khai Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chuyên canh chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030” của Bộ NNPTNT.

Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top