Quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam

23/06/2021 - 10:13 AM
Những con số ấn tượng về khối lượng hàng hóa được thông qua cảng biển Việt Nam thời gian qua đã cho thấy sự phát triển mạnh mẽ và ngày càng khẳng định vị trí, tầm quan trọng của kinh tế cảng biển trong phát triển kinh tế ở nước ta… Tuy nhiên, bài toán phát triển kinh tế cảng biển hiện còn nhiều khó khăn và thách thức, nhất là việc hiện đại hóa, nâng cao năng suất, chất lượng phục vụ… Chính vì vậy, để đẩy mạnh phát triển toàn diện và bền vững kinh tế cảng biển thì việc lập quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời gian tới cần sự đồng bộ và chiến lược dài hạn.

Hạ tầng cảng biển - động lực phát triển kinh tế cảng biển

Kết quả thực hiện Quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2190/QĐ-TTg ngày 24/12/2009 cho thấy, sau 20 năm quy hoạch, hệ thống cảng biển Việt Nam đến nay cơ bản đáp ứng được mục tiêu phát triển theo quy hoạch được phê duyệt, tạo động lực phát triển các khu kinh tế, công nghiệp - đô thị ven biển, đảm bảo tốt việc thông qua hàng hóa xuất nhập khẩu và vận tải hàng hóa bằng đường biển giữa các vùng miền trong cả nước, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, đảm bảo an ninh - quốc phòng. Theo đánh giá, hiện quy mô phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đã, đang được điều chỉnh phù hợp với bối cảnh kinh tế toàn cầu và quá trình tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng nền kinh tế đất nước. Hệ thống cảng biển nước ta được quy hoạch, đầu tư phát triển khá toàn diện cả về quy mô, số lượng, chiều dài cầu cảng, công suất, trọng tải và độ hiện đại, đáp ứng nhu cầu xuất, nhập khẩu, vận tải hàng hóa đường biển cả trong nước và quốc tế.

 
Quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam

Ảnh minh họa

 
Tính đến hết năm 2019, cả nước có 588 cầu cảng/96.275 m bến (gấp 4 lần năm 2000). Việt Nam đã hình thành các khu bến tổng hợp, công-ten-nơ, chuyên dùng hiện đại và Cảng cửa ngõ quốc tế thuộc mạng lưới vận tải hàng hải quốc tế tại hai đầu đất nước, đủ sức cạnh tranh trong hoạt động cảng biển với các nước trong khu vực. Các cảng cửa ngõ kết hợp trung chuyển quốc tế tại khu vực phía Bắc và phía Nam tiếp nhận tàu công ten nơ đến 132 nghìn tấn tại khu bến Lạch Huyện (Hải Phòng); đến 214 nghìn tấn tại khu bến Cái Mép (Bà Rịa - Vũng Tàu) và các bến chuyên dùng quy mô lớn gắn với các khu công nghiệp, liên hợp luyện kim, lọc hóa dầu, trung tâm nhiệt điện than tiếp nhận tàu đến 200 nghìn tấn, hàng lỏng đến 150 nghìn tấn (tàu xuất sản phẩm), dầu thô đến 320 nghìn tấn, cơ bản đã đạt được các mục tiêu theo quy hoạch đến năm 2020. Về tuyến vận tải, Việt Nam đã thiết lập được 32 tuyến vận tải biển, trong đó 25 tuyến vận tải quốc tế và 07 tuyến vận tải nội địa. Ngoài các tuyến nội Á, khu vực phía Bắc đã khai thác 2 tuyến đi Bắc Mỹ; phía Nam đã hình thành được 16 tuyến tàu xa đi Bắc Mỹ và châu Âu vượt trội hơn các nước khu vực Đông Nam Á (chỉ sau Malaysia và Singapore). Mặt khác, đã đưa vào khai thác 44 luồng hàng hải công cộng, 34 luồng hàng hải chuyên dùng, 94 đèn biển trải dài từ Quảng Ninh đến Kiên Giang, 32 đài thông tin trải dài từ Móng Cái đến Hà Tiên cùng hệ thống thu nhận, truyền phát, cung cấp thông tin nhận dạng và theo dõi vị trí tàu, thuyền. Hệ thống cung cấp dịch vụ nhận dạng và dõi theo hành trình tàu thuyền trên phạm vi toàn cầu (LRIT) và hệ thống quản lý giao thông tàu biển (VTS) được lắp đặt tại các cảng biển lớn hỗ trợ hiệu quả công tác quản lý, giám sát vị trí tàu thuyền; giám sát, quản lý hoạt động hàng hải trong vùng nước cảng biển…

Bên cạnh đó, với các chính sách mở thu hút đầu tư của Nhà nước vào lĩnh vực cảng biển, hệ thống cảng nước sâu của Việt Nam thời gian gần đây không chỉ mở rộng quy mô mà còn ngày càng khẳng định vị thế trên bản đồ hàng hải thế giới. Theo đó, sự kiện cụm cảng nước sâu Cái Mép - Thị Vải (Bà Rịa - Vũng Tàu) tiếp nhận thành công tàu Margrethe Maers (một trong những“siêu tàu” công ten nơ lớn nhất thế giới với sức chở đến gần 20.600 Teus) vào tháng 10/2020 đã tạo vị thế cho cảng biển Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu, giảm chi phí trung chuyển, chi phí logistics, từ đó tăng giá trị và sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Cảng biển nước sâu Gemalink tại Cái Mép - Thị Vải được đưa vào khai thác tháng 01 năm 2021, có khả năng tiếp nhận tàu công ten nơ lớn nhất thế giới (lên tới hơn 200 nghìn DWT), tàu dầu trọng tải đến 320 nghìn DWT, tiếp nhận được đồng thời 3 tàu mẹ vào làm hàng cùng lúc. Đây là cảng nước sâu lớn nhất Việt Nam, một trong số 19 cảng trên thế giới có khả năng đón được các siêu tàu lớn nhất hiện nay. Cảng Gemalink có công suất giai đoạn 1 là 1,5 triệu Teus/năm, góp phần nâng tổng công suất khai thác tại Cái Mép - Thị Vải lên 8,3 triệu Teus/năm.

Có thể thấy, việc cơ sở hạ tầng cảng biển Việt Nam và giao thông hàng hải kết nối ngày càng được hoàn thiện là yếu tố tạo đà quan trọng cho sự phát triển của kinh tế cảng biển. Sự phát triển đó đã góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế cảng biển thời gian qua. Theo đó, đến năm 2020, dù bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19, nhưng khối lượng hàng hóa thông qua cảng biển vẫn duy trì tăng trưởng, đạt hơn 680 triệu tấn (tăng 4% so với năm 2019). Về khối lượng, hàng công ten nơ thông qua cảng biển đạt 22,14 triệu Teus (tiêu chuẩn loại công ten nơ 20 feet), tăng 13%, sản lượng hàng hóa do đội tàu Việt Nam vận chuyển ước đạt 159,4 triệu tấn, tăng 3% và vận chuyển công ten nơ ước đạt 2,6 triệu tấn, tăng 8% so với cùng kỳ năm 2019. Hiện nay, đội tàu biển mang cờ quốc tịch Việt Nam đảm nhận gần 100% lượng hàng vận tải nội địa bằng đường biển. Các cảng biển có khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu nhiều nhất là cảng TP. Hồ Chí Minh với 162,9 triệu tấn, Vũng Tàu 112,9 triệu tấn, Quảng Ninh 109,6 triệu tấn, Hải Phòng 83,9 triệu tấn…

Đặc biệt, thời điểm đầu năm 2021, lượng hàng hóa qua các cảng biển Việt Nam tăng mạnh, với mức tăng tại một số cảng biển lên tới 27-29%. Chỉ riêng trong tháng 01/2021, sản lượng hàng hóa qua các cảng biển đạt hơn 62 triệu tấn, tăng 17% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó hàng công ten nơ là 2,2 triệu Teus, tăng 27% so với cùng kỳ năm 2020 (hàng xuất khẩu là 734 nghìn Teus, tăng 22%; hàng nhập khẩu 679 nghìn Teus, tăng 23%).

Theo thống kê, 2 tháng đầu năm 2021, tổng sản lượng hàng hóa thông qua cảng biển Việt Nam tăng 11% so với cùng kỳ năm 2020, ước đạt hơn 113,5 triệu tấn. Trong đó, hàng xuất khẩu đạt hơn 26 triệu tấn (bằng với cùng kỳ năm 2020); hàng nhập khẩu đạt hơn 35,3 triệu tấn, tăng 14%; hàng nội địa ước đạt gần 52 triệu tấn, tăng 15%. Riêng hàng công ten nơ, trong 2 tháng đầu năm ước đạt hơn 3,8 triệu Teus, tăng 25% so với năm 2020.

Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển thời gian tới

Sự phát triển và ngày càng mở rộng của hạ tầng cảng biển đã đem lại những lợi ích thiết thực trong phát triển kinh tế cảng biển. Tuy nhiên, để phát triển kinh tế cảng biển thì việc lập quy hoạch tổng thể phát triển hạ tầng cảng biển có ý nghĩa hết sức quan trọng, nhằm đảm bảo nhu cầu phát triển doanh nghiệp, cũng như đáp ứng những đòi hỏi việc phát triển kết cấu hạ tầng hàng hải khi nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa ngày càng tăng cao.

Bên cạnh đó, các chuyên gia cho biết, mặc dù thời gian qua, phát triển kinh tế cảng biển đã có những tín hiệu tích cực song về lâu dài vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức, bởi thực tế hiện nay ngoài hệ thống các cảng biển thì năng lực vận tải biển của Việt Nam còn nhiều hạn chế, chủ yếu đảm nhận vận tải hàng hóa lưu chuyển trong nước. Đội tàu biển Việt Nam đảm nhận vận tải biển quốc tế mới chỉ đạt khoảng 7% thị phần trong tổng sản lượng hàng hóa xuất nhập khẩu với các tuyến chính đi Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và khu vực Đông Nam Á.

Ngoài ra, trước đây, quá trình triển khai thực hiện quy hoạch cảng biển còn tồn tại một số bất cập như: Chưa đồng bộ giữa quy hoạch cảng biển với quy hoạch xây dựng của địa phương và các ngành công nghiệp khác. Hệ thống cảng biển còn phân tán, manh mún; cơ sở hạ tầng giao thông, các khu công nghiệp phát triển chưa đồng bộ với hệ thống cảng biển; công nghệ, phương tiện, máy móc còn lạc hậu; chất lượng dịch vụ hải quan còn hạn chế, chi phí thông quan cao; đầu tư dàn trải, cơ cấu chưa hợp lý, thừa cảng nhỏ, thiếu cảng lớn, cảng nước sâu; tốc độ hiện đại hóa còn chậm, chưa đủ điều kiện tiếp nhận tàu trọng tải trung bình và lớn của thế giới...

Đặc biệt, năm 2021, trước những dự báo về sự phục hồi của hoạt động sản xuất, tiêu dùng trong nước cũng như hoạt động xuất khẩu của Việt Nam… Trong đó, kinh tế cảng biển có quan hệ mật thiết với các hoạt động thương mại, được kỳ vọng sẽ có sự phát triển mạnh mẽ đạt tăng trưởng cao khi nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hoá ngày một tăng cao và để đáp ứng nhu cầu vận tải đa quốc gia nên quy mô của hệ thống cảng biển ngày phải một mở rộng hơn, quy hoạch tốt hơn... để có thể đón được những chiếc tàu tầm cỡ quốc tế vào Việt Nam.

Để khắc phục những hạn chế trên, đồng thời tận dụng được những cơ hội hiện có nhằm nâng cao năng lực toàn diện của hệ thống cảng biển, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, Việt Nam hiện đang thực hiện 3 quy hoạch nhằm bảo đảm mục tiêu phát triển kinh tế cảng biển. Cụ thể: Quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển, bến cảng cầu cảng, bến phao, khu nước thời kỳ 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2050. Quy hoạch chi tiết phát triển vùng đất, vùng nước cảng biển thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2050.

Trong đó, Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được xác định là một quy hoạch tổng thể, tạo cơ sở triển khai các quy hoạch
có tính chất kỹ thuật chuyên ngành như quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển, bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu nước, vùng nước và quy hoạch chi tiết phát triển vùng đất, vùng nước cảng biển nhằm đảm bảo hệ thống cảng biển Việt Nam được phát triển liên tục theo một quy hoạch tổng thể và thống nhất trên quy mô cả nước.
Để triển khai xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Mới đây tháng 01/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định Phê duyệt Nhiệm vụ lập Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 với mục tiêu lập quy hoạch nhằm hoạch định phát triển cho cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050, triển khai cụ thể hóa chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045. Trong đó xác định, Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021, tầm nhìn đến năm 2050 sẽ kế thừa và phát huy thành quả của 20 năm xây dựng và tổ chức triển khai quy hoạch hệ thống cảng biển quốc gia, tận dụng lợi thế vị trí địa lý điều kiện tự nhiên kết hợp khoa học, công nghệ để phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam một cách bền vững, toàn diện, hiện đại, đồng bộ hạ tầng phụ trợ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của toàn hệ thống, góp phần đẩy mạnh phát triển toàn diện kinh tế cảng biển Việt Nam.

Nội dung quy hoạch cần phân tích, đánh giá về các yếu tố, điều kiện tự nhiên, nguồn lực, bối cảnh, thực trạng phân bố và sử dụng không gian của kết cấu hạ tầng cảng biển Việt Nam; dự báo xu thế phát triển, kịch bản phát triển và biến đổi khí hậu ảnh hưởng trực tiếp tới kết cấu hạ tầng cảng biển trong thời kỳ quy hoạch. Dự báo xu thế phát triển khoa học công nghệ tác động tới phát triển cảng biển tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, cần phân tích, đánh giá sự liên kết giữa kết cấu hạ tầng cảng biển với kết cấu hạ tầng của các ngành, lĩnh vực khác trong phạm vi vùng lãnh thổ, trong đó bao gồm đánh giá tính đồng bộ của mạng lưới cảng biển, kết nối giữa cảng biển với các phương thức vận tải (đường biển, đường bộ, đường sắt, hàng không, đường thủy nội địa), kết nối vùng, kết nối đối ngoại (với các quốc gia khác), kết nối với hệ thống đô thị, khu kinh tế, khu du lịch, khu công nghiệp, khu chế xuất, trung tâm logistics, cảng cạn. Sự đồng bộ giữa hạ tầng cảng biển và hạ tầng phụ trợ gồm hạ tầng báo hiệu hàng hải…

Quy hoạch cần đề xuất các giải pháp quản lý, thực hiện quy hoạch nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển cảng tại Việt Nam đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất trong đầu tư, khai thác cảng biển. Đẩy mạnh mạnh thu hút mọi nguồn lực, ưu tiên đầu tư cảng nước sâu nhằm tận dụng các lợi thế, giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí logistics, giảm nhẹ gánh nặng đè lên các tuyến đường bộ và giảm ách tắc giao thông tại cảng, nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế cảng biển…

Với những nội dung đề xuất và giải pháp được xác định trong nhiệm vụ lập quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, tin tưởng rằng Quy hoạch sẽ là nền tảng, tạo tiền đề để kinh tế cảng biển của Việt Nam tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới./

 
Thu Hòa 
Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top