Tác động của Covid-19 đến thị trường lao động của Việt Nam từ góc độ giới

26/01/2022 - 10:03 AM
 
Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, thị trường lao động việc làm Việt Nam đang có nhiều biến động, số lao động bị ảnh hưởng về việc làm và tình trạng mất, giảm thu nhập ngày càng tăng. Dưới góc độ giới, đại dịch Covid-19 không chỉ làm trầm trọng thêm sự bất bình đẳng hiện hữu trên thị trường lao động mà còn tạo ra những bất bình đẳng mới.
 
Một trong những tác động dễ thấy nhất của đại dịch đối với thị trường lao động (TTLĐ) trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam là giảm số giờ làm.

Do đại dịch COVID-19, người lao động (NLĐ) đã phải đối mặt với một loạt thách thức ảnh hưởng đến tình trạng việc làm, bao gồm giảm giờ làm, nghỉ luân phiên, tạm nghỉ việc, và cuối cùng là mất việc làm. Kết quả phân tích tổng số giờ làm trước và sau khủng hoảng COVID-19 đã lượng hóa được tác động của COVID-19 đến sự gián đoạn công việc của phụ nữ và nam giới. Theo ILO, năm 2020, có tới 8,8% số giờ làm trên toàn cầu bị mất so với quý IV năm 2019, tương đương với 255 triệu việc làm toàn thời gian. Con số này lớn hơn khoảng 4 lần so với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2009.


Tác động của Covid-19 đến thị trường lao động của Việt Nam từ góc độ giới
Ảnh minh họa

Tại Việt Nam, NLĐ phải đối mặt với tình trạng giảm giờ làm nghiêm trọng trong quý II năm 2020, đặc biệt là phụ nữ. Tổng số giờ làm ở Việt Nam thường đạt mức cao nhất trong quý IV của bất kỳ năm nào, do hoạt động kinh tế sôi động trước dịp Tết Nguyên đán. Người lao động thường giảm giờ làm đáng kể trong quý đầu tiên của năm khi các gia đình vẫn còn đang trong không khí Tết. Số giờ làm thực chất đã giảm trong suốt năm 2019 so với quý IV năm 2018 vốn dĩ rất sôi động. Số giờ làm trong quý II năm 2020 thấp hơn nhiều so với xu hướng mùa vụ nói chung. Điều này chủ yếu là do Việt Nam đóng cửa các mặt hàng không thiết yếu từ tháng 3 đến tháng 4, đóng cửa trường học và các biện pháp phong tỏa nghiêm ngặt ở các quốc gia là đối tác xuất khẩu của Việt Nam. Trong suốt thời gian này, đối với hàng triệu NLĐ ở Việt Nam, cả nam lẫn nữ, khả năng làm việc là điều không thể. Tuy nhiên, tác động của các biện pháp giãn cách xã hội không được cân xứng giữa hai giới. Tổng số giờ làm hàng tuần của phụ nữ bằng 88,8% tổng số giờ làm của họ trong quý IV năm 2019. Ngược lại, con số này ở nam là 91,2%.

Trong quý III và quý IV năm 2020, tổng số giờ làm được phục hồi. Trong quý III, cả nam và nữ làm việc tổng số giờ nhiều hơn so với xu hướng thời vụ, mặc dù tỷ lệ tham gia LLLĐ có giảm. Điều này cho thấy nhiều người nỗ lực làm việc để bù đắp khoản thu nhập bị mất đi trong quý II. Điều thú vị là trong quý III và quý IV, số giờ làm của phụ nữ phục hồi nhanh hơn so với của nam giới. Sự gia tăng số giờ làm so với xu hướng mùa vụ cũng trở nên rõ rệt hơn ở phụ nữ so với nam giới trong cả hai quý. Trong 3 tháng cuối năm 2020, phụ nữ làm việc nhiều hơn 0,8% số giờ so với cùng kỳ năm 2019, mặc dù số lượng phụ nữ tham gia làm việc năm 2020 thấp hơn năm 2019. Mặt khác, nam giới làm việc nhiều hơn 0,6% số giờ trong quý cuối cùng của năm 2020 so với cùng kỳ năm trước.

Những phụ nữ có việc làm trong quý III và Quý IV năm 2020 làm việc nhiều giờ hơn bình thường, có thể để bù đắp cho các khoản thu nhập bị mất trong quý II. Cụ thể, họ làm việc trung bình nhiều hơn 1 giờ 42 phút mỗi tuần trong quý IV của năm 2020 so với cùng kỳ năm 2019. Xu hướng này cũng tương tự đối với nam giới mặc dù khiêm tốn hơn. Họ làm việc trung bình nhiều hơn 36 phút mỗi tuần trong quý IV năm 2020 so với cùng kỳ năm trước. Số giờ làm của tất cả phụ nữ có việc làm cộng lại trong quý III và quý IV năm 2020 cao hơn đáng kể so với xu hướng chung khi nhìn vào tổng số giờ làm trong năm 2019. Điều này cho thấy rằng lao động nữ đã tìm cách làm việc nhiều giờ hơn, khi mà trường học và doanh nghiệp mở cửa trở lại và hoạt động kinh tế cũng dần phục hồi.

Số giờ làm gia tăng ở phụ nữ trong quý III và quý IV khiến gánh nặng kép về trách nhiệm kinh tế kết hợp việc nhà trở nên nặng nề hơn. Khi đại dịch xảy ra, thời gian phụ nữ dành cho việc nhà như dọn dẹp, nấu nướng hoặc chăm sóc gia đình và con cái vẫn cao một cách không cân xứng. Kết quả phân tích thời gian phân bổ cho việc nhà ở những người có việc làm cho thấy, trong quý III và quý IV, mặc dù phụ nữ tham gia thêm nhiều giờ hoạt động kinh tế, nhưng họ cũng chăm sóc gia đình vẫn với cường độ bình thường. Cả nam và nữ có việc làm đều tham gia làm việc nhà với tỷ lệ cao hơn so với năm 2019. Tuy nhiên, trong khi hầu hết phụ nữ đều dành một quỹ thời gian nhất định để phục vụ gia đình, thì gần 20% nam giới lại không hề dành chút nào gian nào cho việc nhà. Còn những nam giới tham gia làm việc nhà thì cũng chỉ dành trung bình bằng khoảng 2/3 thời gian phụ nữ bỏ ra.

Sự tham gia của phụ nữ vào LLLĐ giảm nghiêm trọng vào năm 2020. Phụ nữ trẻ và lớn tuổi là những đối tượng đặc biệt có nguy cơ rời khỏi TTLĐ.

Tỷ lệ tham gia LLLĐ giảm là một trong những yếu tố tác động đến việc giảm giờ làm trong quý II, với tỷ lệ phụ nữ rời bỏ LLLĐ lớn hơn nam giới, làm tăng khoảng cách tham gia LLLĐ của Việt Nam. Mặc dù phụ nữ khá tích cực tham gia TTLĐ so với các nước trong khu vực hoặc có cùng mức thu nhập như Việt Nam, nhưng chênh lệch giới vẫn còn hiện hữu. Kể từ khi COVID-19 tấn công, tỷ lệ tham gia LLLĐ giảm mạnh đối với cả phụ nữ và nam giới, nhưng phụ nữ thậm chí lại có tỷ lệ giảm mạnh hơn. Sự tham gia của phụ nữ giảm 4,8 điểm phần trăm trong quý II/2020, xuống 66,2%, trong khi nam giới giảm 3,9 điểm phần trăm, xuống 77,4%. Một yếu tố quan trọng góp phần vào tình trạng giảm giờ làm ở phụ nữ trong quý II là hơn một triệu người trong số họ không tham gia hoạt động kinh tế. Điều này có nghĩa là họ đã mất việc, hoặc không tìm việc làm mới, hoặc không sẵn sàng nhận việc ngay nếu có, hoặc cả hai.

Sự phục hồi về số giờ làm trong quý III và quý IV cũng trùng với thời điểm NLĐ gia nhập lại LLLĐ. Tuy nhiên, mức độ tham gia vẫn thấp hơn năm 2019 và khoảng cách tham gia trung bình giữa hai giới ngày càng nới rộng. Cuối năm 2020, tỷ lệ tham gia của phụ nữ tăng lên 68,5% và của nam giới đạt 79,3%. Tuy nhiên, các giá trị này lần lượt thấp hơn 2,4 và 2,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Chênh lệch giới tính về tỷ lệ tham gia LLLĐ trung bình kể từ khi COVID-19 tấn công Việt Nam đã nới rộng lên 11,2 điểm phần trăm nghiêng về nam giới, tăng từ mức trung bình 9,5 điểm phần trăm trong suốt thập kỷ qua.

Phụ nữ trẻ và lớn tuổi có xu hướng rời khỏi LLLĐ vào năm 2020 cao hơn phụ nữ trong độ tuổi lao động chính. Những phụ nữ từ 15 đến 24 tuổi và những người từ 55 tuổi trở lên chiếm 28% LLLĐ vào năm 2019. Trong quý III năm 2020, tỷ lệ này đã giảm xuống còn 24,7%. Phụ nữ lớn tuổi ở khu vực nông thôn thường có khuynh hướng rời bỏ LLLĐ. Xu hướng này bắt đầu vào quý II và tiếp tục đến quý IV. Trái lại, phụ nữ trẻ tuổi lại ghi nhận sự sụt giảm nghiêm trọng về tỷ lệ tham gia LLLĐ ở khu vực thành thị, bắt đầu từ quý II năm 2020 và ngày càng nghiêm trọng hơn trong các quý tiếp theo.

Những sự sụt giảm này có thể là hệ quả của nhiều nguy cơ tổn thương đồng thời mà phụ nữ phải đối mặt trước khi đại dịch diễn ra. Phụ nữ trẻ và lớn tuổi thường làm những loại công việc thiếu ổn định nhất so với phụ nữ ở độ tuổi lao động chính (25-54). Ở Việt Nam trước thời điểm đại dịch, phụ nữ trong độ tuổi từ 15-24 có xác suất làm việc phi chính thức cao hơn 5% so với phụ nữ ở độ tuổi lao động chính. Nhìn chung, nữ lao động làm công ăn lương trẻ tuổi có xác suất được ký được hợp đồng lao động dài hạn thấp hơn 20% so với phụ nữ lớn tuổi. Hầu như mọi phụ nữ trên 55 tuổi đều làm việc phi chính thức, vì điều này trùng với tuổi nghỉ hưu theo quy định. Khi kim ngạch xuất khẩu giảm cộng với tình trạng đóng cửa nơi làm việc khiến sản lượng kinh tế trong các lĩnh vực việc làm chủ chốt giảm đáng kể, bao gồm cả dịch vụ và nông nghiệp, thì những người ở các nhóm tuổi này có nguy cơ mất việc làm nhiều hơn. Phần lớn những phụ nữ trẻ thành thị bỏ việc trong giai đoạn này đều là những người làm các công việc thiếu ổn định trong lĩnh vực dịch vụ, trong khi hầu hết những phụ nữ lớn tuổi ở nông thôn nghỉ việc đều là lao động tự làm và lao động gia đình trong nông nghiệp.

Ngoài ra, phụ nữ trong các nhóm tuổi này thường làm việc ít giờ hơn và có mức thu nhập thấp hơn. Nếu là lao động làm công ăn lương, phụ nữ từ 15 đến 24 tuổi có mức thu nhập thấp hơn 11,7% so với mức trung bình của tất cả phụ nữ vào năm 2019 và thấp hơn 50,6% nếu họ là lao động tự tạo việc làm. Phụ nữ trên 55 tuổi có mức thu nhập thấp hơn 32,4% nếu họ là lao động làm công ăn lương và thấp hơn 21,4% nếu họ là lao động tự tạo việc làm. Trong những tháng đóng cửa trường học, có thể tưởng tượng rằng trong các hộ gia đình trách nhiệm chăm sóc con cái sẽ được giao cho người có thu nhập thấp hơn trong gia đình, để sao cho ảnh hưởng ít nhất đến tình hình tài chính của gia đình họ.

Tác động của COVID-19 đã dẫn đến chênh lệch giới trong tỷ lệ thất nghiệp, điều vốn dĩ không xảy ra trong năm 2019.

Một lý do khác giải thích cho tình trạng giảm số giờ làm là tỷ lệ thất nghiệp nữ gia tăng, trong khi tỷ lệ thất nghiệp nam vẫn duy trì ổn định. Quy mô của sự gia tăng đó là ở mức vừa phải, so với sự gia tăng về quy mô nữ không tham gia hoạt động kinh tế. Trong quý II năm 2020, Việt Nam có thêm 120 nghìn phụ nữ thất nghiệp so với quý IV năm 2019, trong khi có thêm 1,8 triệu phụ nữ không tham gia hoạt động kinh tế. Điều này cho thấy sự gia tăng về tỷ lệ “không làm việc” do COVID-19 gây nên chủ yếu xuất phát từ việc phụ nữ rời khỏi LLLĐ và chỉ một phần rất nhỏ là do phụ nữ bị thất nghiệp. Tương tự, đối với nam giới, mặc dù cả tỷ lệ “không làm việc” lẫn tỷ lệ thất nghiệp ở nam giới tăng đều thấp hơn so với nữ giới. Đây là một phát hiện không hề ngạc nhiên xét trong bối cảnh đại dịch COVID-19. Các nước trên thế giới, và ở mức độ thấp hơn là Việt Nam, đã phải cắt giảm quy mô hoạt động kinh tế để đảm bảo giãn cách xã hội. Trong trường hợp này, đối với hầu hết những lao động bị ảnh hưởng, họ không thể làm việc, đồng thời cũng không thể tìm kiếm việc làm mới khi các biện pháp phong tỏa hoặc đóng cửa nơi làm việc đang được áp dụng.

Đại dịch COVID-19 đã tạo ra khoảng cách về tỷ lệ thất nghiệp theo hướng bất lợi đối với phụ nữ, mà điều này không tồn tại trước khi có đại dịch. Trong quý IV năm 2019, không có sự chênh lệch rõ ràng về tỷ lệ thất nghiệp giữa nam và nữ. Điều này đúng với cả thất nghiệp ở lao động thanh niên lẫn lao động trưởng thành. Khi đại dịch tấn công TTLĐ của Việt Nam, tác động của nó đối với thất nghiệp thực sự không đồng đều trong LLLĐ. Điều này có nghĩa là trong số những phụ nữ tham gia LLLĐ dù đã giảm đi trong quý III năm 2020, một tỷ lệ lớn không có việc làm bất chấp việc họ sẵn sàng nhận việc ngay và tích cực tìm kiếm việc làm.

Nữ thanh niên là những người ghi nhận mức tăng rõ nhất (2,7 điểm phần trăm). Con số này hầu như không thay đổi trong quý IV. Gần 1/10 số phụ nữ trong độ tuổi từ 15 đến 24 tích cực tìm kiếm và sẵn sàng đi làm ngay đã không thể tìm được việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp của phụ nữ trưởng thành tăng chút ít (1 điểm phần trăm). Mặt khác, tỷ lệ thất nghiệp nam giới, sau khi tăng vừa phải trong quý II, đã co hẹp trở lại vào nửa cuối năm 2020. Tỷ lệ thất nghiệp ở nam thanh niên giảm so với trước COVID, trong khi tỷ lệ thất nghiệp ở người trưởng thành hầu như không thay đổi trong quý III và giảm nhẹ trong quý IV. Khi so sánh tỷ lệ thất nghiệp trong quý III và quý IV năm 2020 với tỷ lệ thất nghiệp cùng kỳ năm 2019, trong đó loại bỏ tác động của yếu tố mùa vụ, đã cho ra kết quả rất tương đồng.

Những ngành kinh tế có tỷ trọng lao động nữ tương đối cao là những ngành ghi nhận mức giảm lớn nhất về số giờ làm.

Kết quả phân tích về số giờ làm bị mất theo ngành kinh tế trong quý II năm 2020, khi tác động của các biện pháp phong tỏa được cảm nhận rõ nhất, chỉ ra rằng hậu quả của COVID-19 khiến số giờ làm giảm mạnh nhất đối với các ngành sử dụng nhiều lao động nữ.

Trong quý II năm 2020, tổng số giờ làm của lao động nữ làm công ăn lương đã giảm rõ rệt. Lao động nữ làm công ăn lương bị ảnh hưởng tiêu cực hơn so với lao động nam, vì những ngành có tỷ trọng lao động nữ lớn hơn là những ngành có tỷ lệ giờ làm giảm nhiều hơn. Đồng thời, cũng có thể thấy rằng điều này đã ảnh hưởng đến một số lượng lớn lao động nữ, khi mà những ngành bị ảnh hưởng nặng nề nhất là ngành sử dụng nhiều lao động, và một tỷ trọng cao trong số họ là lao động nữ.

Ngành sản xuất và dịch vụ có số giờ làm bị mất đáng kể trong quý II. Lao động nữ làm công ăn lương trong lĩnh vực lữ hành, khách sạn; hộ gia đình và các lĩnh vực dịch vụ khác đều chịu ảnh hưởng nặng nề bởi Covid-19. Quan trọng hơn đối với phụ nữ, tổng số giờ làm trong lĩnh vực sản xuất giảm 9%. Sản xuất đồ may mặc bị ảnh hưởng nặng nề, tổng số giờ làm của phụ nữ trong ngành này giảm 14,1% so với quý II năm 2019. Phụ nữ trong các ngành này có nguy cơ phải nghỉ luân phiên, tạm ngưng hợp đồng lao động và các hình thức tương tự khác được doanh nghiệp áp dụng để đối phó với tình trạng suy giảm nhu cầu quốc tế và cả nhu cầu nội địa, dù ở mức độ thấp hơn. Mặt khác, trong số những phụ nữ làm công việc dễ bị tổn thương, hầu hết số giờ làm bị mất đều rơi vào lĩnh vực nông nghiệp ở nông thôn. Điều này được xác định bởi sự sụt giảm tỷ lệ nữ tham gia LLLĐ đã đề cập ở trên. Ngược lại, các ngành sử dụng nhiều nam giới, đặc biệt là xây dựng, vận tải và kho bãi, hành chính công và quốc phòng, tổng số giờ làm chỉ giảm một lượng nhỏ, thậm chí còn tăng lên.

Trong quý III và quý IV, tình hình việc làm và số giờ làm trong lĩnh vực sản xuất được cải thiện. Số giờ làm trung bình của phụ nữ phục hồi nhanh hơn so với nam giới, và điều này tái khẳng định các xu hướng quan sát được trên TTLĐ nói chung. Số giờ làm hàng tuần của phụ nữ trong quý IV năm 2020 ghi nhận mức tăng 11,7% so với quý II. Số giờ làm của nam giới, vốn dĩ ghi nhận mức giảm ít hơn nữ giới hồi đầu năm, đã tăng trở lại 10,0%. Để tiện so sánh, trong năm 2019, số giờ làm hàng tuần tăng 4,2% đối với phụ nữ và 3,6% đối với nam giới, so với quý II cùng năm. Mức độ việc làm trong lĩnh vực sản xuất cũng được cải thiện trong nửa cuối năm 2020. Trên thực tế, việc làm trong lĩnh vực sản xuất đã có sự phục hồi nhanh nhất trong tất cả các ngành của nền kinh tế. Quý IV năm 2020 khép lại với tỷ lệ có việc làm tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước. Việc làm của nữ trong lĩnh vực này bị ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng trong quý II, nhưng đến cuối năm 2020, tỷ lệ này đã phục hồi 9,0%. Việc làm của nam tăng 4,6% so với quý II. Những sự gia tăng này dẫn đến việc, tính đến cuối năm 2020, việc làm trong lĩnh vực sản xuất đã tăng trưởng hơn 5,5% đối với phụ nữ và 7,2% đối với nam giới so với năm 2019. Trong bối cảnh tỷ lệ tham gia của LLLĐ thấp hơn và diễn biến dù tích cực nhưng tương đối chậm của nền kinh tế Việt Nam, những phát hiện này được xem là rất khả quan./.


 
Đình Long
 
 
 
 

Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top