LTS: Trong thời gian, từ ngày 10-20/4/2020, Tổng cục Thống kê đã triển khai khảo sát về tác động của dịch Covid-19 đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đã có trên 126,5 nghìn doanh nghiệp tham gia trả lời, chiếm gần 20% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh tại thời điểm hiện nay.
Kết quả khảo sát cho thấy, trong số những doanh nghiệp chịu tác động tiêu cực bởi dịch Covid-19, hiện có tới gần 20% số doanh nghiệp đang phải tạm ngừng hoạt động. Nếu dịch kéo dài đến hết quý II, dự kiến cả nước có khoảng 134 nghìn doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động; nếu dịch kéo dài đến hết quý III, số lượng doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động tăng lên 160 nghìn; đến hết quý IV tăng lên 205 nghìn doanh nghiệp.
Theo quy mô, các doanh nghiệp quy mô siêu nhỏ có tỷ lệ tạm ngừng hoạt động cao nhất với 23,6%.
Theo loại hình doanh nghiệp, khu vực doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài Nhà nước có tỷ lệ tạm ngừng hoạt động ở mức cao nhất, cùng đạt 20,3%.
Theo ngành kinh tế, khu vực dịch vụ có tỷ lệ doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động cao nhất với 22,1%. Trong khu vực dịch vụ, tỷ lệ trên đạt rất cao ở các nhóm ngành ăn uống, lưu trú và du lịch, với tỷ lệ lần lượt là 54,0%; 51,1% và 49,5%.
Tỷ lệ doanh nghiệp tạm ngừng hoặc phá sản trên phạm vi toàn quốc theo các kịnh bản dịch bệnh kéo dài
Qua kết quả khảo sát của 126.565 doanh nghiệp thuộc các ngành kinh tế, ở tất cả các địa phương, Tổng cục Thống kê dự báo:
Nếu dịch Covid-19 kéo dài đến cuối quý II/2020, ước tính có 134 nghìn doanh nghiệp cả nước phải tạm ngừng hoạt động hoặc phá sản; trong đó, có hơn 98 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực dịch vụ và gần 35 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực công nghiệp và xây dựng phải tạm ngừng hoạt động; theo quy mô doanh nghiệp: Có gần 130 nghìn doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ phải tạm ngừng hoạt động.
Nếu dịch Covid-19 kéo dài đến hết quý III/2020, doanh nghiệp gặp khó khăn càng trở nên nghiêm trọng, ước tính sẽ có hơn 160 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng hoặc phá sản và con số này tiếp tục tăng nhanh lên hơn 205 nghìn doanh nghiệp nếu dịch kéo dài đến hết quý IV.
Những khó khăn doanh nghiệp phải đối mặt đã ảnh hưởng nặng nề đến kết quả SXKD của doanh nghiệp. Doanh thu quý I/2020 của toàn bộ khu vực doanh nghiệp giảm mạnh xuống còn 74,1% so với cùng kỳ năm trước và ước tính 4 tháng đầu năm 2020, doanh thu sẽ tiếp tục giảm xuống chỉ bằng 69,6% so với cùng kỳ.
Theo quy mô doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp quy mô siêu nhỏ và nhỏ là hai nhóm có sự sụt giảm doanh thu mạnh nhất. Dự kiến doanh thu quý I/2020 so với cùng kỳ năm trước của hai nhóm doanh nghiệp này chỉ đạt 59,9% và 61,4%. Dự kiến 4 tháng đầu năm 2020, doanh thu của các nhóm doanh nghiệp hoạt động trong các ngành sau sẽ giảm mạnh, cụ thể: Ngành đại lý du lịch chỉ bằng 44,0% so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ này ở các ngành: Giáo dục và đào tạo: 47,6%; lưu trú: 56,0%, ăn uống: 59,7% và hàng không: 76,5%.
Tác động của dịch Covid-19 tới nguồn nhân lực trong doanh nghiệp
Kinh tế bị đình trệ kéo theo nhu cầu về lao động của khu vực doanh nghiệp sụt giảm, ảnh hưởng lớn tới thị trường lao động. Qua số liệu khảo sát, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 tính đến hết quý I/2020, có tới 21,6% lao động bị mất việc làm; 7,5% lao động phải tạm nghỉ việc không lương; 9,0% lao động bị giảm lương và 22,8% lao động bị giãn việc/nghỉ luân phiên.
Theo quy mô doanh nghiệp, lao động bình quân quý I/2020 so với cùng kỳ năm trước của nhóm doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa bị tác động bởi dịch chỉ đạt mức 70,0%, do đây là nhóm có tỷ lệ doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động và tỷ lệ doanh nghiệp không thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh ở mức cao hơn so với nhóm doanh nghiệp có quy mô lớn. Dự báo sẽ tiếp tục giảm trong tháng 4, khi đó tỷ lệ lao động bình quân 4 tháng đầu năm 2020 chỉ bằng 65,0% so với cùng kỳ năm trước. Lao động của nhóm doanh nghiệp quy mô lớn bình quân quý I chỉ bằng 82,9% so với cùng kỳ năm trước, ước tính bình quân 4 tháng đầu năm 2020 lao động sẽ giảm xuống chỉ bằng 79,0% so với 4 tháng đầu năm 2019. Lực lượng lao động của nhóm doanh nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ bị ảnh hưởng nhiều nhất, khi có tới 13,3% và 12,6% lao động tạm thời phải nghỉ việc không lương; 12,7% và 11,4% lao động bị giảm lương. Các doanh nghiệp quy mô vừa cũng có 10,9% lao động phải nghỉ không lương và 12,3% giảm lương. Xu hướng này ở các doanh nghiệp quy mô lớn được cải thiện hơn, chỉ có 5,7% lao động phải nghỉ không lương và 7,8% lao động bị giảm lương.
Theo loại hình doanh nghiệp: Khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước có tỷ lệ lao động nghỉ việc nhiều nhất là 28,7%; tiếp theo là khu vực doanh nghiệp Nhà nước với 25,9% và khu vực doanh nghiệp FDI với 23,3%. Lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI có mức lương ổn định nhất so với các khu vực doanh nghiệp còn lại, chỉ 13,8% doanh nghiệp FDI áp dụng giải pháp cho lao động nghỉ không lương và 10,7% doanh nghiệp áp dụng giải pháp giảm lương nhân viên; trong khi tỷ lệ doanh nghiệp cho lao động nghỉ không lương và giảm lương ở khu vực doanh nghiệp Nhà nước lần lượt là 18,4% và 23,1%; khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước là 21,8% và 19,2%.
Theo ngành kinh tế, một số ngành công nghiệp trọng điểm cũng đang đối mặt với việc cắt giảm lao động, lao động của quý I/2020 trong ngành da giày chỉ bằng 70,1% so với cùng kỳ năm trước; ô tô chỉ bằng 78,2%, may mặc: 84,1%, điện tử: 89,2%. Tỷ lệ này ở một số ngành dịch vụ như ngành ăn uống: 61,5%, lưu trú: 72,1% và hàng không: 83,4%. Lao động của ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống đang bị ảnh hưởng rất nặng nề khi lao động bị sụt giảm mạnh, đi kèm với số lao động tạm nghỉ việc không lương hoặc bị giảm lương ở mức cao. Có tới 36,2% lao động ngành lưu trú và 33,8% lao động ngành ăn uống đang phải nghỉ không lương tại thời điểm hiện nay; cùng với đó là 26,9% lao động ngành lưu trú và 18,9% lao động ngành ăn uống bị giảm lương. Ngành hàng không tuy chỉ có 5,9% lao động phải nghỉ việc không lương, nhưng ngành này lại có tới 94,9% lao động bị giảm lương, bên cạnh đó cũng có một bộ phận không nhỏ lao động của ngành này đang phải áp dụng giải pháp giãn việc/nghỉ luân phiên, lên tới 64,7% số doanh nghiệp.
Kỳ vọng của doanh nghiệp về các giải pháp hỗ trợ của chính phủ
Trong nỗ lực cải thiện tình thế khó khăn của doanh nghiệp trước mắt, Chính phủ đã đưa ra hàng loạt những giải pháp cấp bách hỗ trợ doanh nghiệp, gần đây nhất là Chỉ thị số 11/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ được ban hành ngày 04/3/2020.
Các doanh nghiệp đánh giá mức độ phù hợp của 9 nhóm giải pháp được đưa ra trong Chỉ thị 11/CT-TTg như sau:

Hầu hết các nhóm giải pháp trong Chỉ thị số 11/CT-TTg đều được doanh nghiệp đánh giá tương đối phù hợp, với điểm trung bình dao động trong khoảng từ 1,4 đến 1,9 điểm (theo thang điểm từ 1 đến 5, trong đó 1 là rất phù hợp và 5 là không phù hợp) với tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá là phù hợp ở mức khá cao, từ 73,0% đến 88,0%. Trong đó, giải pháp “Không điều chỉnh tăng giá trong quý I và quý II năm 2020 đối với các mặt hàng là đầu vào cho sản xuất do Nhà nước kiểm soát giá” và giải pháp “Miễn, giãn, giảm lãi suất vay, phí ngân hàng” được nhiều doanh nghiệp ủng hộ nhất, điểm trung bình đạt 1,47 điểm và 1,48 điểm. Đây cũng là hai nhóm giải pháp có tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá phù hợp cao nhất, với 87,4% và 87,0% doanh nghiệp đánh giá tích cực về các giải pháp. Giải pháp về “Gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất” cũng được đánh giá khá cao, với 1,54 điểm và được 84,9% doanh nghiệp đánh giá tích cực. Giải pháp “Cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian xét duyệt hồ sơ vay vốn” và “Cơ cấu lại thời hạn trả nợ và các khoản nợ” đạt 1,61 điểm và 1,62 điểm, với 83,0% doanh nghiệp ủng hộ. Các giải pháp còn lại đạt số điểm và tỷ lệ đánh giá tích cực lần lượt như sau: “Miễn, giảm phí dịch vụ thanh toán điện tử”: 1,75 điểm và 78,0%; “Tạm dừng đóng BHXH và kinh phí công đoàn”: 1,80 điểm và 76,7%; “Đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu và tìm thị trường mới”: 1,85 điểm và 75,2%; “Giảm thủ tục hành chính và chi phí logistics”: 1,89 điểm và 73,5%.
Cộng đồng doanh nghiệp đánh giá rất cao nỗ lực của Chính Phủ đã kịp thời đưa ra các giải pháp hỗ trợ, giúp doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn. Trong thời gian tới, doanh nghiệp kỳ vọng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sẽ chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy nhanh tiến độ, thủ tục giải ngân hỗ trợ khu vực doanh nghiệp, bao gồm:
Nâng cao tính khả thi của các giải pháp hỗ trợ, nâng cao khả năng tiếp cận của doanh nghiệp tới gói hỗ trợ: Cắt giảm thủ tục, giấy tờ chứng minh, xét duyệt; ban hành thông tư hướng dẫn cụ thể, minh bạch, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong phổ biến kịp thời công văn hướng dẫn cụ thể về đối tượng áp dụng, mức độ áp dụng và quy trình thực hiện tới từng doanh nghiệp;
Tạm ngừng các hoạt động thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp thời gian này để doanh nghiệp tập trung vào phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh; hiện tại một số doanh nghiệp vẫn nhận được công văn yêu cầu thanh tra, kiểm toán doanh nghiệp trong tháng 5 tới;
Mở rộng phạm vi nhóm ngành và đối tượng được hưởng ưu đãi;
Triển khai hệ thống cổng thông tin quốc gia đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực để doanh nghiệp có thể tiến hành đăng ký và nộp hồ sơ xét duyệt qua mạng, hạn chế việc đi lại, có thể nhận và gửi công văn đến cơ quan hải quan nhanh chóng và thuận tiện.
Có quy định chung về tiêu chí xác định biên độ giảm lãi, quy trình thực hiện, thẩm định và xét duyệt;
Hỗ trợ cho vay lãi suất ưu đãi để doanh nghiệp trả lương cho người lao động, giúp doanh nghiệp duy trì được nguồn lao động có tay nghề/trình độ chuyên môn cao.
Kiến nghị giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, ổn định và phát triển sản xuất
Đối với các cơ quan nhà nước
Một là, xem xét mở rộng đối tượng được áp dụng trong các giải pháp hỗ trợ đã ban hành của Chỉ thị số 11/CT-TTg: Cần xây dựng bộ danh mục tiêu chuẩn chung để rà soát, đánh giá, phân loại mức độ ảnh hưởng của dịch tới từng ngành nghề kinh doanh và từng nhóm doanh nghiệp cụ thể, có tính tới đối tượng gián tiếp bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch; Phân cấp thành nhiều mức độ hỗ trợ, áp dụng cho từng nhóm đối tượng được phân loại ở trên.
Hai là, tiếp tục cải cách quy trình, thủ tục để doanh nghiệp tiếp cận các chính sách hỗ trợ đơn giản, thuận tiện, kip thời.
Ba là, đẩy nhanh tiến độ ứng dụng giải pháp vào thực tiễn, cụ thể: Văn bản hướng dẫn thực hiện cho các chính sách hỗ trợ của Chỉ thị 11 cần rõ ràng, dễ hiểu; Đối với các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp đã được Chính phủ ban hành, cần nhanh chóng thực hiện triển khai hướng dẫn về đối tượng được áp dụng, phạm vi áp dụng; quy trình thực hiện; Giải pháp đưa ra cần được triển khai thực hiện đồng loạt ở các cấp; Có cơ chế xử phạt đối với người thi hành công vụ cố tình gây khó khăn, chậm trễ, ảnh hưởng tới doanh nghiệp.
Bốn là, tiếp tục đưa ra các giải pháp về hỗ trợ tín dụng như: Giảm lãi suất vay vốn và giãn nợ đối với các khoản vay hiện hữu; Xây dựng bộ quy tắc chuẩn mực áp dụng chung cho khối ngân hàng về việc thực hiện các giải pháp hỗ trợ, thống nhất tiêu chí xác định biên độ giảm lãi, quy trình thẩm định và xét duyệt; Cho vay ưu đãi với lãi suất 0% hoặc hỗ trợ một phần chi phí trả công cho lao động để doanh nghiệp duy trì được bộ máy nhân sự hiện có, giữ chân được lao động lành nghề và lao động có trình độ chuyên môn; Ngân hàng Nhà nước cần tiến hành xác định, đánh giá những ngân hàng đã thực hiện các giải pháp hỗ trợ thiết thực với doanh nghiệp thì mới được áp dụng hạ lãi suất điều hành.
Năm là, thúc đẩy nhanh việc tìm thị trường nguyên liệu/thị trường tiêu thụ mới cho doanh nghiệp ngoài thị trường tiềm năng: Xác định các mặt hàng nguyên vật liệu bị thiếu hụt từ nhập khẩu và các mặt hàng doanh nghiệp sản xuất ra nhưng không thể tiến hành xuất khẩu, gặp khó khăn, vướng mắc trong quá trình xuất, nhập khẩu; Tiếp cận, đánh giá các thị trường xuất nhập hiện có, đề xuất và tận dụng những thị trường truyền thống có thể chuyển hướng đẩy mạnh xuất nhập khẩu; tìm kiếm thông tin về các nhà cung cấp về những mặt hàng thị trường trong nước đang bị thiếu hụt; Tiếp cận các thị trường mới, ngoài thị trường xuất, nhập khẩu truyền thống;
Sáu là, tiếp tục triển khai thực hiện các giải pháp hỗ trợ về thuế, phí, lệ phí: Cắt giảm một số loại thuế, phí, lệ phí cơ sở hạ tầng: phí lưu thông, phí cầu đường, bến bãi; Triển khai áp dụng giảm thuế thu nhập doanh nghiệp với một số ngành nghề đặc thù thuộc danh mục ngành công nghiệp hỗ trợ; Tiếp tục đẩy nhanh quá trình triển khai miễn, giảm thuế, tiền thuê đất; giảm giá thuê mặt bằng sản xuất kinh doanh.
Bảy là, những giải pháp hỗ trợ khác: Chính phủ, các cấp, các ngành tập trung mọi nỗ lực kiểm soát dịch bệnh một cách triệt để, góp phần giúp doanh nghiệp ổn định sản xuất kinh doanh, hoạt động trở lại; Tạm dừng hoạt động thanh, kiểm tra để doanh nghiệp tập trung vào phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh; Đẩy mạnh Chính phủ điện tử, gửi văn bản hướng dẫn thủ tục tiếp cận các chính sách hỗ trợ đến từng doanh nghiệp qua hòm thư điện tử hoặc đăng tải thông tin hướng dẫn chi tiết, công khai, minh bạch, rõ ràng và cụ thể trên trang thông tin của Chính phủ; Thực hiện các giải pháp kích cầu sau khi dịch Covid-19 qua đi; Tiến hành liên kết thị trường cung - cầu, ưu tiên thị trường trong nước, tìm những nguồn cung nguyên liệu đầu vào trong nước, nghiên cứu các loại nguyên vật liệu mới có thể thay thế nguồn nguyên liệu nhập khẩu; Chính phủ cần có chiến lược, kế hoạch tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp tăng tốc phát triển sản xuất kinh doanh sau khi kết thúc dịch Covid-19.
Đối với doanh nghiệp
Những doanh nghiệp đã nhận được hỗ trợ của Nhà nước từ Chỉ thị số 11/CT-TTg, nhanh chóng triển khai hoạt động để ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh. Đối với những doanh nghiệp chưa biết đến hoặc chưa nhận được hỗ trợ từ Chỉ thị số 11/CT-TTg cần nhanh chóng tiếp cận các cơ quan liên quan để hoàn thành thủ tục cần thiết, tiếp nhận hỗ trợ để ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh.
Linh hoạt, sáng tạo chuyển đổi mô hình SXKD hiệu quả trong giai đoạn cả nước và toàn cầu vẫn đang phải gánh chịu tác động của dịch bệnh.
Tăng cường đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong sản xuất kinh doanh, đặc biệt các công nghệ lõi có tính tiên phong.
Chủ động đổi mới tư duy kinh doanh, nâng cao năng lực quản trị, năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ; chuẩn hóa sản xuất kinh doanh để đáp ứng các yêu cầu, tiêu chí của các thị trường quốc tế.
Tăng cường liên kết, hợp tác kinh doanh phát triển các chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, dịch vụ, tiến tới nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
Đổi mới mô hình sản xuất kinh doanh gắn với mục tiêu phát triển bền vững: Sản xuất sạch, xanh, tiết kiệm, sử dụng hiệu quả năng lượng, bảo vệ môi trường, hướng tới nhóm người yếu thế trong xã hội./.
Nguồn: Tổng cục Thống kê