Tăng tốc chuyển đổi số quốc gia

26/10/2022 - 10:25 AM

Đại dịch Covid-19 xảy ra trên toàn cầu, trong đó có Việt Nam đã tạo ra cú huých giúp Việt Nam có những bước tiến thần tốc trong chuyển đổi số (CĐS). Theo các chuyên gia, nếu năm 2021 Việt Nam thực hiện CĐS mạnh mẽ thì năm 2022 và cả giai đoạn tiếp theo được nhận định là thời điểm để tăng tốc. Đến nay, CĐS quốc gia đã đạt được kết quả ở cả 3 trụ cột là chính phủ số, kinh tế số và xã hội số với nhiều mục tiêu của 10 - 20 năm đã có thể thực hiện được trong 1 năm, thậm chí nhanh hơn.

Tăng tốc chuyển đổi số quốc gia

Năm 2022 là năm thúc đẩy mạnh mẽ CĐS ở mọi ngành trên phạm vi toàn quốc, toàn dân và toàn diện. Chính phủ Việt Nam coi hạ tầng số, hạ tầng dữ liệu, các nền tảng số quốc gia là yếu tố then chốt và đang nỗ lực tăng tốc lộ trình CĐS quốc gia. Tại phiên họp thứ 3 của Ủy ban Quốc gia về CĐS vừa diễn ra cho thấy, hầu hết các bộ, ngành, địa phương đã ban hành nghị quyết của cấp ủy, kế hoạch của chính quyền 5 năm và hằng năm về CĐS. Ban Chỉ đạo CĐS của toàn bộ 22/22 bộ, ngành và 63/63 địa phương được thành lập và đi vào hoạt động.

 Tăng tốc chuyển đổi số quốc gia

Ảnh minh họa (Nguồn: Interrnet)

Công tác hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách nhằm tạo môi trường pháp lý cho CĐS cũng được đẩy mạnh. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 8 văn bản quan trọng về CĐS (6 Quyết định, 1 Chỉ thị, 1 Nghị định).

Hạ tầng công nghệ thông tin, các nền tảng số tiếp tục được phát triển từ trung ương đến địa phương, đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu CĐS. Tốc độ truy cập mạng băng rộng cố định đã tăng 32,7%, mạng di động tăng 4,7% so với cùng kỳ. Mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước kết nối 4 cấp hành chính tiếp tục được phát triển, đã kết nối đến 100% huyện, hơn 97% xã trên toàn quốc.

Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư được đẩy mạnh triển khai, kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ cung cấp dịch vụ công trực tuyến và các tiện ích cho người dân và doanh nghiệp (DN). Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã kết nối liên thông với 11 bộ, ngành; 4 DN Nhà nước và 14 địa phương tiếp tục làm giàu dữ liệu dân cư“đúng, đủ, sạch, sống”. Bước đầu đưa vào thí điểm triển khai một số ứng dụng của thẻ căn cước. Cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm quản lý thông tin của 27 triệu hộ gia đình tham gia bảo hiểm y tế, bao gồm thông tin của 98 triệu người dân.

Bên cạnh đó, dịch vụ công trực tuyến được triển khai ngày càng hiệu quả, sâu rộng. Cổng Dịch vụ công quốc gia đã cung cấp 3.699 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4; hơn 2,1 triệu tài khoản đăng ký, tăng hơn 2,8 lần so với cùng kỳ; hơn 122,7 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái, tăng hơn 2 lần so với cùng kỳ; hơn 4,1 triệu hồ sơ trực tuyến thực hiện từ Cổng Dịch vụ công quốc gia, tăng hơn 3 lần so với cùng kỳ.

Hoạt động CĐS trong DN diễn ra mạnh mẽ trong những năm gần đây. Các DN đã chủ động tìm hướng đi mới, áp dụng CĐS trong vận hành để có thể duy trì tối đa hoạt động sản xuất, kinh doanh. Mô hình nền kinh tế số được DN chú trọng trong định hướng hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Đặc biệt, quá trình CĐS của các DN công nghệ số Việt Nam đã khẳng định vai trò tiên phong trong nghiên cứu, phát triển và đổi mới sáng tạo, làm chủ công nghệ, đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển nền kinh tế số. Đến nay, Việt Nam đã có nhiều DN công nghệ lớn như: Viettel, VNPT, FPT, CMC BKAV, MISA… và các DN công nghệ mới nổi, phát triển từ hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo như: Momo, 1Office, Base.vn, Anvui… Ngoài ra, nhiều DN cũng đang tiếp tục nghiên cứu, phát triển ra các sản phẩm, nền tảng công nghệ phục vụ CĐS quốc gia.

Quá trình CĐS giúp Việt Nam tạo ra nhiều ngành nghề kinh doanh mới và tạo ra việc làm cho hàng chục nghìn lao động. Nguồn nhân lực cho CĐS cũng đang được chú trọng phát triển, đa dạng hình thức đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn trong đó có thể kể đến sự hợp tác mới đây giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Tập đoàn Google đã ra mắt chương trình phát triển nhân tài số (Google Career Certificates) và hỗ trợ DN khởi nghiệp (Google for Startups). Thông qua hai chương trình này giúp Việt Nam thu hẹp khoảng cách kỹ thuật số, cung cấp nhiều hơn các cơ hội học tập và phát triển cho những nhân tài và DN khởi nghiệp tại Việt Nam.

Có thể nói, CĐS đang đi đúng hướng và đi nhanh, quyết liệt đưa công nghệ vào triển khai các mặt của đời sống kinh tế xã hội giúp thúc đẩy CĐS quốc gia, tỷ trọng kinh tế số trong GDP gia tăng. Nếu năm 2021, tỷ trọng kinh tế số trong GDP đạt khoảng 9,6% thì đến quý I/2022, tỷ trọng kinh tế số trong GDP tăng lên 10,2% và đến quý II/2022, con số này là 10,41%. Năm 2022, mục tiêu đặt ra, kinh tế số trong GDP sẽ chiếm 11,2%. Theo Chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế số và xã hội số vừa được Thủ tướng Chính phủ ban hành, mục tiêu kinh tế số sẽ chiếm 20% GDP vào năm 2025 và 30% GDP vào năm 2030.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được CĐS thời gian qua còn một số khó khăn, vướng mắc như: Số lượng nguồn nhân lực công nghệ thông tin, CĐS còn rất hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu CĐS; Việc kết nối, chia sẻ dữ liệu còn nhiều hạn chế, vướng mắc, chưa hiệu quả, chưa hình thành một hệ thống liên thông, thông suốt. Hạ tầng công nghệ thông tin của nhiều bộ, ngành, địa phương đã đầu tư từ lâu, thiếu đồng bộ, chưa được nâng cấp, không bảo đảm việc kết nối, chia sẻ dữ liệu; Tỉ lệ xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng chưa cao; thiếu cơ chế giám sát triển khai CĐS.

Để tiếp tục thực hiện CĐS đi đúng hướng, đi nhanh đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, ngày 3/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định số 749 QĐ-TTg về Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Tầm nhìn của Việt Nam là trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của DN, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp.

Chương trình hướng tới mục tiêu kép vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các DN công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu. Chương trình đặt ra mục tiêu đến năm 2025: Việt Nam thuộc nhóm 70 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI); kinh tế số chiếm 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; năng suất lao động hàng năm tăng tối thiểu 7%; Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về công nghệ thông tin (IDI); Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về chỉ số cạnh tranh (GCI); Việt Nam thuộc nhóm 35 nước dẫn đầu về đổi mới sáng tạo (GII); hạ tầng mạng băng rộng cáp quang phủ trên 80% hộ gia đình, 100% xã; phổ cập dịch vụ mạng di động 4G/5G và điện thoại di động thông minh; tỷ lệ dân số có tài khoản thanh toán điện tử trên 50%; Việt Nam thuộc nhóm 40 nước dẫn đầu về an toàn, an ninh mạng (GCI). Đến năm 2030, 100% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4, được cung cấp trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao gồm cả thiết bị di động; 100% hồ sơ công việc tại cấp bộ, tỉnh; 90% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 70% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng (trừ hồ sơ công việc thuộc phạm vi bí mật nhà nước); Hình thành nền tảng dữ liệu cho các ngành kinh tế trọng điểm dựa trên dữ liệu của các cơ quan Nhà nước và hạ tầng kết nối mạng Internet vạn vật (IoT), kết nối, chia sẻ rộng khắp giữa các cơ quan nhà nước, giảm 30% thủ tục hành chính; mở dữ liệu cho các tổ chức, DN, tăng 30% dịch vụ sáng tạo dựa trên dữ liệu phục vụ người dân, DN; 70% hoạt động kiểm tra của cơ quan quản lý Nhà nước được thực hiện thông qua môi trường số và hệ thống thông tin của cơ quan quản lý; Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI); kinh tế số chiếm 30% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%; năng suất lao động hàng năm tăng tối thiểu 8%; Việt Nam thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về công nghệ thông tin (IDI); Việt Nam thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về chỉ số cạnh tranh (GCI); Việt Nam thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về đổi mới sáng tạo (GII); phổ cập dịch vụ mạng Internet băng rộng cáp quang; phổ cập dịch vụ mạng di động 5G; tỷ lệ dân số có tài khoản thanh toán điện tử trên 80%; Việt Nam thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về an toàn, an ninh mạng (GCI).

Nhiệm vụ và giải pháp chuyển đổi số quốc gia thời gian tới

Để thực hiện mục tiêu chương trình CĐS quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 thời gian tới cần tập trung vào các nhiệm vụ và giải pháp tạo nền móng chuyển đổi số như:

Một là, tổ chức phổ biến, quán triệt chủ trương của Đảng, nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, người dân và DN về sự cần thiết và tính cấp thiết của CĐS. Gắn các mục tiêu, nhiệm vụ về CĐS với nghị quyết, chiến lược, chương trình hành động, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của các cấp, các ngành. Phát huy vai trò liên kết CĐS giữa các cơ quan Nhà nước và các tổ chức, DN; giữa hội, hiệp hội ngành nghề công nghệ thông tin với hội, hiệp hội chuyên ngành trong các lĩnh vực khác để tạo hiệu ứng lan tỏa ra xã hội.

Hai là, kiến tạo thể chế theo hướng khuyến khích, sẵn sàng chấp nhận sản phẩm, giải pháp, dịch vụ, mô hình kinh doanh số, thúc đẩy phương thức quản lý mới đối với những mối quan hệ mới phát sinh, bao gồm: Xây dựng khung pháp lý thử nghiệm có kiểm soát cho hoạt động phát triển, thử nghiệm và áp dụng các sản phẩm, giải pháp, dịch vụ, mô hình kinh doanh số ở Việt Nam; rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực chuyên ngành để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các mối quan hệ mới phát sinh trong tiến trình CĐS, khuyến khích đổi mới, sáng tạo; nghiên cứu chính sách, quy định cụ thể về thuế, phí để khuyến khích người dân, DN sử dụng, cung cấp các dịch vụ số.

Ba là, phát triển hạ tầng số, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu bùng nổ về kết nối và xử lý dữ liệu, các chức năng về giám sát mạng lưới đến từng nút mạng và bảo đảm an toàn, an ninh mạng được tích hợp sẵn ngay từ khi thiết kế, xây dựng bao gồm: Xây dựng, phát triển hạ tầng băng rộng chất lượng cao trên toàn quốc; quy hoạch lại băng tần, phát triển hạ tầng mạng di động 5G; sớm thương mại hóa mạng di động 5G; triển khai các giải pháp để phổ cập điện thoại di động thông minh tại Việt Nam; mở rộng kết nối Internet trong nước, khu vực và quốc tế, đặc biệt là phát triển các tuyến cáp quang biển, đưa Việt Nam trở thành một trong những trung tâm kết nối khu vực. Phát triển hạ tầng kết nối mạng Internet vạn vật (IoT).

Bốn là, phát triển nền tảng số mang tính thúc đẩy nhanh tiến trình CĐS diễn ra một cách tự nhiên, khai mở giá trị mới, mang lại lợi ích rõ ràng cho xã hội. Nền tảng số được tích hợp sẵn các chức năng về bảo đảm an toàn, an ninh mạng ngay từ khi thiết kế, xây dựng như: Xây dựng hệ thống định danh và xác thực điện tử quốc gia; xây dựng hệ thống thanh toán điện tử cho phép DN viễn thông cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử không thông qua tài khoản ngân hàng (Mobile Money) đối với người dân để phổ cập, cung cấp khả năng tiếp cận dịch vụ thanh toán điện tử một cách rộng rãi tới tất cả người dân; xây dựng và làm chủ công nghệ điện toán đám mây (Cloud).

Năm là, tạo lập niềm tin vào tiến trình CĐS, hoạt động trên môi trường số thông qua việc hình thành văn hóa số, bảo vệ các giá trị đạo đức căn bản và bảo đảm an toàn, an ninh mạng, bảo vệ dữ liệu cá nhân bao gồm: Nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm quốc tế trong việc xây dựng các bộ quy tắc ứng xử, tạo lập niềm tin trong môi trường số, hình thành văn hóa số gắn liền với bảo vệ các giá trị đạo đức căn bản của nhân loại và văn hóa truyền thống của Việt Nam; xây dựng cơ chế hợp tác, đối thoại để giải quyết các vấn đề phát sinh; xây dựng và triển khai hệ thống xác định, phát hiện thông tin vi phạm pháp luật trên không gian mạng và kịp thời xử lý, gỡ bỏ; xây dựng và triển khai hệ thống đánh giá tín nhiệm số đối với hệ thống thông tin của các tổ chức, DN cung cấp dịch vụ trực tuyến để đánh giá và công bố công khai mức độ an toàn, tin cậy; xây dựng và triển khai hệ thống giám sát, cảnh báo sớm nguy cơ, điều phối ứng cứu sự cố mất an toàn, an ninh mạng cho các cơ quan, tổ chức tại Việt Nam.

Sáu là, hợp tác quốc tế, nghiên cứu, phát triển và đổi mới sáng tạo trong môi trường số. Thu hút nhân tài, hợp tác với các tổ chức, DN lớn trên thế giới để nghiên cứu, phát triển và đổi mới sáng tạo, bao gồm: Xây dựng chương trình hành động cụ thể để nghiên cứu, chuyển giao, triển khai các công nghệ mới ở Việt Nam; nghiên cứu, xây dựng các khu thử nghiệm dành cho DN công nghệ theo mô hình tiên tiến của thế giới để tiên phong thử nghiệm công nghệ mới nhất, mô hình mới nhất trên thế giới; Lựa chọn ưu tiên nghiên cứu một số công nghệ cốt lõi mà Việt Nam có khả năng tạo bứt phá mạnh mẽ như: Trí tuệ nhân tạo (AI), chuỗi khối (blockchain) và thực tế ảo/thực tế tăng cường (VR/AR); xây dựng hệ thống điện toán có năng lực đủ mạnh để xử lý, phân tích dữ liệu; Chủ động hợp tác quốc tế trong việc tham gia quản lý các tài nguyên chung trong môi trường số và trên không gian mạng./.

Nguyễn Trang

 

 


Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top