Những năm trở lại đây, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ra thị trường thế giới không ngừng tăng cả về lượng và giá trị. Thị trường thương mại thế giới luôn thể hiện sức hấp dẫn với doanh nghiệp khi đem lại thặng dư thương mại cao và còn nhiều dư địa khai thác. Vì vậy, doanh nghiệp Việt cần mạnh dạn thay đổi, tận dụng cơ hội, tự tin đưa sản phẩm của mình vượt qua biên giới, tham gia vào chuỗi giá trị thương mại toàn cầu đầy tiềm năng.
Bức tranh thương mại lạc quan tạo động lực cho doanh nghiệp Việt
Ngày 03/09/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1513/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam tham gia các mạng phân phối nước ngoài đến năm 2020”. Từ khi Đề án được triển khai, nhận thức của doanh nghiệp Việt Nam về mô hình kinh doanh này đã ngày càng sâu sắc hơn. Doanh nghiệp chủ động nghiên cứu, nắm bắt thị hiếu của thị trường quốc tế một cách kịp thời, phát triển các sản phẩm mới phù hợp với xu hướng tiêu dùng trong các chuỗi cung ứng, đảm bảo chất lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ cung ứng. Đồng thời, năng lực sản xuất, năng lực phát triển sản phẩm, thị trường, kết nối giao thương cho doanh nghiệp với người mua hàng để đưa hàng Việt thâm nhập trực tiếp vào mạng lưới bán lẻ nước ngoài ngày càng tăng cao. Đặc biệt, việc xuất khẩu hàng hóa Việt Nam thông qua hệ thống mạng lưới phân phối của các Tập đoàn bán lẻ nước ngoài đang ngày càng khẳng định là một kênh xuất khẩu hiệu quả, bền vững được nhiều doanh nghiệp theo đuổi. Với sự hỗ trợ của các Tập đoàn phân phối bán lẻ hàng đầu thế giới, các sản phẩm chất lượng cao của Việt Nam, như: Nông sản, thực phẩm, đồ gia dụng, nội thất, dệt may… đã tới tay hàng triệu người tiêu dùng thông qua hệ thống phân phối trải khắp trên toàn thế giới. Bên cạnh đó, sự hiện diện tích cực của các nhà phân phối bán lẻ lớn nhất thế giới đến từ Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Thái Lan trong các lĩnh vực kinh tế và xuất khẩu của Việt Nam là minh chứng cho mối quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại ngày càng phát triển giữa Việt Nam và các đối tác, cũng như sức hấp dẫn ngày càng tăng của Việt Nam trong vai trò là thị trường bán lẻ, và là nguồn cung quan trọng cho chuỗi cung ứng toàn cầu.
Kể từ năm 2016 đến nay, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tăng trưởng với những con số ấn tượng, từ 176,5 tỷ USD năm 2016 lên 282,6 tỷ USD năm 2020 và 336,1 tỷ USD năm 2021. Năm 2022 là năm có nhiều khó khăn, thách thức chưa từng có bởi những diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường của kinh tế thế giới. Tuy nhiên, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam lần đầu tiên vượt mốc 700 tỷ USD và cán đích ở mức 732 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2021. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa cả năm 2022 đạt 371,85 tỷ USD, tăng 10,6% so với năm trước. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu, khu vực kinh tế trong nước đạt 95,09 tỷ USD, tăng 6,5%, chiếm 25,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 276,76 tỷ USD, tăng 12,1%, chiếm 74,4%. Việt Nam có 36 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 94% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 08 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 70,1%). Về thị trường xuất khẩu, Hoa Kỳ hiện là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam tính đến cuối năm 2022 với kim ngạch ước đạt 109,1 tỷ USD. Riêng tháng 01/2023, Việt Nam tiếp tục ghi nhận xuất siêu đạt 3,6 tỷ USD; có 7 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên, chiếm 66,6% tổng kim ngạch xuất khẩu, đó là: Điện thoại và linh kiện đạt 4 tỷ USD; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 3,7 tỷ USD; máy móc, thiết bị dụng cụ PT khác đạt 2,8 tỷ USD; dệt, may đạt 2,5 tỷ USD; giày, dép đạt 1,6 tỷ USD; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1,1 tỷ USD; phương tiện vận tải và phụ tùng 1 tỷ USD.
Với những nỗ lực của cả Nhà nước và doanh nghiệp, cán cân thương mại hàng hóa của Việt Nam liên tục thặng dư với mức xuất siêu năm sau cao hơn năm trước. Xuất siêu hàng hóa của Việt Nam đã tăng từ 1,6 tỷ USD năm 2016 lên mức kỷ lục 19,94 tỷ USD năm 2020. Do ảnh hưởng có dịch bệnh bùng phát, năm 2021 giá trị xuất siêu giảm còn 3,32 tỷ USD. Tuy nhiên, năm 2022, thành tích xuất siêu vẫn được giữ vững và tăng lại mức 2 con số, đạt 11,2 tỷ USD; trong đó, xuất siêu sang EU ước đạt 31,8 tỷ USD, tăng 36,8% so với năm trước. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục được cải thiện theo chiều hướng tích cực, giảm hàm lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản phẩm công nghiệp, tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất là cung ứng toàn cầu. Những thành tích kể trên đạt được là nhờ sự nỗ lực rất lớn của doanh nghiệp Việt Nam cùng những chủ trương, chính sách, sự hỗ trợ kịp thời và hiệu quả của Chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước. Qua đó, hoạt động xuất khẩu được cho là sẽ tiếp tục là điểm sáng và tạo tiền đề quan trọng để các doanh nghiệp Việt Nam mạnh dạn đặt chân vào thị trường bán lẻ nước ngoài trong năm 2023 và sau này.
Sự hỗ trợ mạnh mẽ giúp doanh nghiệp vững bước
Để đưa được sản phẩm lên các kệ hàng của hệ thống phân phối, bán lẻ tại các thị trường quốc tế vốn khắt khe và khó tính, doanh nghiệp Việt cần có sự chuẩn bị kỹ trước những khó khăn, thách thức ban đầu. Các chuyên gia cho rằng, khó khăn lớn nhất hiện nay là Việt Nam còn thiếu đội ngũ doanh nghiệp đủ mạnh để có thể tiếp cận được với cơ hội xuất khẩu. Doanh nghiệp chưa có trang bị đầy đủ các thủ tục và quy định để đưa hàng vào thị trường, còn lúng túng trong khâu giới thiệu và quảng bá sản phẩm. Thêm vào đó, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận hệ thống phân phối tại các nước sở tại do chưa đảm bảo được tiêu chuẩn chất lượng và truy xuất nguồn gốc. Vấn đề này đã khá quen thuộc trong nhiều năm nay nhưng vẫn là một tồn tại khó khắc phục với doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cũng ngày càng phải đối mặt với thách thức lớn hơn về các vụ kiện phòng vệ thương mại như kiện chống bán phá giá liên quan đến gian lận thương mại về xuất xứ hàng hóa, cũng như các vấn đề về chi phí logistics, lạm phát, biến động giá cả, suy thoái… Vì vậy, để có thể thâm nhập vào thị trường phân phối nước ngoài, doanh nghiệp cần có sự chuẩn bị trước kỹ lưỡng. Cần điều tra, khảo sát sức mua, thị hiếu và tiêu chuẩn kỹ thuật của thị trường đích, từ đó có kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp. Chú trọng tìm hiểu và nắm vững thông tin, quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật, chính sách thương mại, ưu đãi thuế quan và thị hiếu tiêu dùng tại quốc gia đó. Tận dụng sự hỗ trợ của Thương vụ Việt Nam tại nước sở tại làm đầu mối thông tin về doanh nghiệp đối tác và hỗ trợ khi cần thiết; đặc biệt cần nắm rõ quy định điều tra phòng vệ thương mại và tìm hiểu về quy trình thanh toán, vận chuyển quốc tế.
Mặc dù có nhiều khó khăn, thách thức khi doanh nghiệp Việt tham gia vào thị trường phân phối nước ngoài, nhất là với những doanh nghiệp lần đầu tiên dấn thân, nhưng doanh nghiệp vẫn luôn được khuyến khích và nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ Chính phủ để tự tin bước tới. Trong một kế hoạch dài hơi, ngày 14/11/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1415/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Thúc đẩy Doanh nghiệp Việt Nam tham gia trực tiếp các mạng phân phối nước ngoài đến năm 2030” (Đề án). Đề án hướng tới mục tiêu tổng quát phát triển thị trường xuất khẩu, nhập khẩu đảm bảo tăng trưởng bền vững trong dài hạn; Khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam tham gia mạnh mẽ vào chuỗi sản xuất, cung ứng, phân phối hàng hóa toàn cầu, xuất khẩu trực tiếp vào các mạng phân phối nước ngoài trên cơ sở phát huy thế mạnh và khai thác tối đa lợi thế cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam; Đồng thời, xây dựng mối quan hệ hợp tác chiến lược chặt chẽ giữa doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam với các mạng phân phối nước ngoài trên các kênh xuất khẩu truyền thống và kênh thương mại điện tử, hướng tới mô hình sản xuất - xuất khẩu - phân phối ổn định, bền vững; Góp phần làm thay đổi tư duy sản xuất, tổ chức sản xuất theo hướng bài bản, bền vững, từ đó tăng cường khả năng cạnh tranh lâu dài của doanh nghiệp, thu hút nguồn đầu tư trong và ngoài nước vào sản xuất xanh sạch, bền vững, chế biến hàng xuất khẩu có chất lượng cao, mang lại giá trị gia tăng cao cho hàng hóa xuất khẩu Việt Nam, xây dựng hình ảnh Việt Nam là quốc gia có năng lực cung ứng hàng hóa khối lượng lớn, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, uy tín.
Mục tiêu cụ thể để hiện thực hóa đó là: Hỗ trợ về thông tin thị trường cho 20 nghìn lượt doanh nghiệp; Hỗ trợ về đào tạo, tư vấn cho 15 nghìn lượt doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực cung ứng để từng bước tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; hỗ trợ 5.000 lượt doanh nghiệp xây dựng năng lực tham gia thương mại điện tử xuyên biên giới; Đồng thời, tổ chức 10 nghìn lượt kết nối, giao thương với các mạng phân phối nước ngoài; hỗ trợ trên 10 nghìn sản phẩm xuất khẩu trực tiếp vào các mạng phân phối nước ngoài; phấn đấu đến năm 2030, hàng hóa Việt Nam có mặt tại các chuỗi phân phối truyền thống và trực tuyến tại tất cả quốc gia có hiệp định thương mại tự do (FTA) với Việt Nam.
Để đạt được các mục tiêu đã nêu, Đề án đặt ra các nhóm nhiệm vụ giải pháp chính, đó là: Hỗ trợ doanh nghiệp về thông tin thị trường; Hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng năng lực cung ứng cho thị trường nước ngoài; Hỗ trợ doanh nghiệp từng bước thích nghi, chuyển đổi sản xuất đáp ứng xu hướng tiêu dùng bền vững; Hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng năng lực tham gia thương mại điện tử xuyên biên giới; Hỗ trợ xây dựng và phát triển thương hiệu; Tổ chức các hoạt động kết nối, giao thương với các mạng phân phối nước ngoài; Tổ chức các hoạt động truyền thông; Xây dựng cơ chế chính sách thúc đẩy doanh nghiệp nước ngoài xây dựng chiến lược thu mua bền vững với thị trường Việt Nam; Nghiên cứu xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam chủ động phát triển hệ thống đại lý phân phối tại thị trường nước ngoài để đưa hàng vào các mạng phân phối nước ngoài. Bên cạnh đó, cần thực hiện một số nhiệm vụ khác để tận dụng tốt các FTA đã có hiệu lực giữa Việt Nam và đối tác; đàm phán, thúc đẩy quá trình mở cửa thị trường dành cho những mặt hàng nông thủy sản có thế mạnh của Việt Nam tại thị trường nước ngoài, tạo tiền đề cho việc đưa các sản phẩm của Việt Nam vào hệ thống phân phối nước ngoài. Để Đề án đạt được hiệu quả, cần có sự vào cuộc hỗ trợ của các bộ, ngành liên quan, các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng và đặc biệt là sự mạnh dạn dám thay đổi, dám dấn thân để nâng tầm đẳng cấp và thương hiệu của doanh nghiệp Việt./.
ThS. Phùng Thị Kim Phượng - ThS. Nguyễn Thị Vân Anh
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội