Thực trạng đời sống đồng bào dân tộc thiểu số - Nhìn từ chính sách

28/06/2024 - 10:02 AM

Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) là chủ trương xuyên suốt của Đảng và Nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Để hiện thực hóa chủ trương này, Đảng và Nhà nước đã bàn hành nhiều cơ chế chính sách đầu tư hỗ trợ hiệu quả giúp đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào DTTS&MN ngày càng được nâng lên.

Thực trạng đời sống đồng bào dân tộc thiểu số - Nhìn từ chính sách 

Mang nước sạch đến với người dân vùng đồng bào DTTS

Những năm qua, cùng với việc hoạch định chính sách chung cho cả nước, Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm xây dựng chính sách cho vùng DTTS & MN với chủ trương nhất quán đẩy nhanh phát triển về mọi mặt đối với vùng DTTS & MN, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách phát triển so với mặt bằng chung của cả nước. Từ chủ trương đó, nhiều chính sách lớn về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS & MN đã được ban hành như: Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới; các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI, XII, XIII luôn xác định công tác dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, cấp bách, là nhiệm vụ của Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị. Đặc biệt, Quốc hội khóa XIV đã phê duyệt Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 về phê duyệt Đề án tổng thể phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS & MN giai đoạn 2021-2030; Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1719, ngày 14/10/2021, phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I, từ năm 2021 - 2025... 

Về hiệu quả các chính sách giúp vùng đồng bào DTTS phát triển kinh tế - xã hội thời gian qua phải kể tới Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS & MN giai đoạn 2021 - 2030 (Chương trình MTQG 1719). Đây là Chương trình mang tính tổng thể đang phát huy các nguồn lực tạo ra nhiều cơ hội cho đồng bào DTTS nâng cao đời sống vật chất, tinh thần.

Trong giai đoạn 2021-2023, các nội dung thành phần của Chương trình đã đi sâu và bao phủ hầu hết các mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Các nguồn lực, chính sách của Chương trình đã và đang tập trung đầu tư phát triển các công trình hạ tầng thiết yếu phục vụ dân sinh tại địa bàn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào DTTS&MN. Việc hỗ trợ phát triển sản xuất và sinh kế góp phần nâng cao thu nhập cho người dân. Đến nay, nhiều xã, thôn thoát khỏi diện đặc biệt khó khăn, từng bước hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới, ổn định và phát triển.

 Thực trạng đời sống đồng bào dân tộc thiểu số - Nhìn từ chính sách 1

Đơn cử, tại Quảng Bình, UBND tỉnh Quảng Binh đã ban hành Kế hoạch số 1722/KH-UBND, ngày 20/9/2022 về thực hiện Chương trình MTQG phát triển kinh tê - xã hội vùng đồng bào DTTS & MN và Nghị quyết số 08 - NQ/TU ngày 10/6/2022 của Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh giai đoạn 2021 - 2025. Theo đó, Kế hoạch đưa ra mục tiêu đến năm 2025, tỉnh Quảng Bình phấn đấu mức thu nhập bình quân của người DTTS tăng trên 2 lần so với năm 2020; Phấn đấu 50% xã, thôn ra khỏi địa bàn đặc biệt khó khăn; Tỷ lệ hộ nghèo đồng bào DTTS mỗi năm giảm từ 4% trở lên (theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2021 - 2025); có 49 thôn, bản vùng đồng bào DTTS, biên giới và miền núi đạt chuẩn nông thôn mới; 80% thôn, bản có đường ô tô đến trung tâm xã được cứng hóa; 100% số trường, lớp học và trạm y tế được xây dựng kiên cố; 99% số hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia và các nguồn điện khác phù hợp; 90% số hộ đồng bào DTTS được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; Hoàn thành cơ bản công tác định canh định cư. Quy hoạch, sắp xếp, di dời, bố trí ổn định 60% số hộ DTTS đang cư trú tại các khu vực xa xôi, hẻo lánh, nơi có nguy cơ sạt lỡ, lũ ống, lũ quét; Tỷ lệ trẻ mẫu giáo 5 tuổi đến trường đạt trên 98%, học sinh trong độ tuổi học tiểu học trên 97%, học trung học cơ sở trên 95%, học trung học phổ thông trên 60%; người từ 15 tuổi trở lên đọc thông, viết thạo tiếng phổ thông trên 90%; 100% đồng bào DTTS tham gia bảo hiểm y tế; trên 80% phụ nữ có thai được khám định kỳ, sinh con ở cơ sở y tế hoặc có sự trợ giúp của cán bộ y tế; giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể thấp còi xuống dưới 15%; Phấn đấu 50% lao động trong độ tuổi được đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu, điều kiện người DTTS... Để thực hiện hiệu quả các mục tiêu tỉnh Quảng Bình tập trung triển khai thực hiện 10 dự án và các tiểu dự án của Chương trình.

Với Kế hoạch thực hiện bài bản, các dự án và tiểu dự án thành phần được triển khai toàn diện trên các mặt kinh tế, văn hóa xã hội vùng đồng bào DTTS & MN qua đó góp phần đa dạng hóa sinh kế; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; bảo tồn phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS & MN tỉnh Quảng Bình đã có chuyển biến mạnh mẽ. Khoảng cách về mức sống, thu nhập của vùng DTTS & MN so với bình quân chung của cả Tỉnh được thu hẹp. Kết quả đạt được trong thực hiện Chương trình MTQG 1719 sẽ là động lực quan trọng để tỉnh Quảng Bình tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả chương trình trong những năm tiếp theo.

Tại tỉnh Quảng Ngãi, theo báo cáo số 673/BC - BDT ngày 10/7/2023 cho thấy, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh và các cấp, các ngành. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XX đã xác định đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững ở các huyện miền núi là một trong bốn nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ 2020-2025; kinh tế vùng đồng bào DTTS & MN tiếp tục tăng trưởng; mục tiêu giảm hộ nghèo đạt kết quả tốt, đầu năm 2023, toàn vùng đồng bào DTTS và MN có 19.827 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 30,27% và giảm 5,37% so với đầu năm 2022 và đạt mục tiêu đề ra 4%/năm; có 9.814 hộ cận nghèo, chiếm tỷ lệ 13,99%; có 05 xã đạt tiêu chí nông thôn mới, đạt tỷ lệ 8,2%; 100% xã có điện lưới quốc gia; hệ thống giao thông ở vùng đồng bào DTTS&MN cơ bản đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa và đi lại của người dân; mạng lưới giao thông từ huyện đến xã, thôn đang từng bước được cải thiện, 100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã được nhựa hóa, cứng hóa; 95,5% thôn, tổ dân phố có nhà sinh hoạt cộng đồng; 100% xã có trường, lớp mầm non chuẩn quốc gia, tỷ lệ trẻ mầm non ra lớp đạt 92,96%; tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, thấp còi giảm nhiều so với các năm trước.

Đồng thời có thể thấy ở nhiều địa phương trên cả nước, những chương trình, chính sách được ban hành đang phát huy hiệu quả góp phần làm thay đổi diện mạo phát triển của vùng đồng bào DTTS & MN. Đời sống của đồng bào DTTS & MN ngày càng được cải thiện, tình trạng du canh du cư ở một số vùng đã giảm rõ rệt. Công tác giáo dục có nhiều tiến bộ. Hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú được hình thành và phát triển từ Trung ương đến các huyện vùng dân tộc và miền núi. Mạng lưới y tế phát triển, hệ thống bệnh viện tỉnh, huyện và trạm y tế xã được quan tâm đầu tư. Văn hóa truyền thống đặc sắc của các DTTS được tôn trọng, bảo tồn và phát huy...

 Thực trạng đời sống đồng bào dân tộc thiểu số - Nhìn từ chính sách 2

Theo Ủy ban Dân tộc, đánh giá sơ bộ của các địa phương, đến nay tình hình kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS & MN đạt được một số kết quả như: Có 5/52 tỉnh, thành phố đạt mức thu nhập bình quân của người DTTS tăng trên 2 lần so với năm 2020; có 4/52 tỉnh đạt từ 1,5 đến 2 lần; có 17/52 tỉnh đạt dưới 1,5 lần. Có 25/52 tỉnh, thành phố đạt chỉ tiêu Tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào DTTS mỗi năm giảm trên 3%; có 8/52 tỉnh giảm từ 2 đến 3%; có 7/52 tỉnh giảm dưới 2%. Có 18/52 tỉnh, thành phố đạt 100% số trường, lớp học và trạm y tế được xây dựng kiên cố; có 18/52 tỉnh đạt từ 80% đến 100%; có 4/52 tỉnh đạt dưới 80%. Có 16/52 tỉnh, thành phố Hoàn thành cơ bản công tác định canh, định cư; sắp xếp, bố trí ổn định trên 90% số hộ di cư không theo quy hoạch; có 3/52 tỉnh đạt từ 80 đến 90%; có 3/52 tỉnh, thành phố đạt dưới 80%....

Cùng với việc ban hành các chính sách đi vào cuộc sống giúp đồng bào DTTS nâng cao đời sống vật chất tinh thần, phát triển kinh tế - xã hội, ngày 1/7/2024 tới đây Tổng cục Thống kê (TCTK) và Ủy ban Dân tộc (UBDT) sẽ tổ chức Điều tra, thu thập thông tin về thực trạng kinh tế-xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2024. Đây là lần thứ 3 UBDT và TCTK phối hợp tổ chức thực hiện điều tra (lần điều tra đầu tiên thực hiện vào năm 2015, lần thứ 2 vào năm 2019). Theo Phương án, sẽ thực hiện điều tra tại 54 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó 51 tỉnh có xã thuộc vùng DTTS&MN và 3 tỉnh, thành phố có các xã/phường/thị trấn có nhiều người DTTS sinh sống.

Cuộc điều tra lần này hướng đến việc cung cấp thông tin toàn diện về dân số và phân bố dân cư, tiếp cận cơ sở hạ tầng, kinh tế, nghèo đói, an sinh xã hội, văn hóa, xã hội, giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, y tế và vệ sinh môi trường nông thôn, cán bộ, đảng viên, di cư tự do, tôn giáo, tín ngưỡng, an ninh nông thôn vùng DTTS... Kết quả của cuộc điều tra sẽ là nguồn dữ liệu quan trọng để đánh giá 5 năm triển khai Đề án tổng thể, Chiến lược công tác dân tộc, đánh giá kết quả thực hiện Chương trình MTQG phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS&MN cũng như kết quả thực hiện công tác dân tộc giai đoạn 2021-2025, chuẩn bị xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia, kế hoạch phát triển giai đoạn tiếp theo 2026-2030.

Có thể thấy, từ những chính sách được ban hành và đi vào cuộc sống, cùng những con số thống kê chính thống phản ảnh khách quan, trung thực thực trạng kinh tế - xã hội 53 DTTS là nguồn dữ liệu quý giá, là căn cứ quan trọng để xây dựng, hoạch định, giám sát thực hiện công tác dân tộc và nâng cao phát triển kinh tế - xã hội cho vùng đồng bào DTTS & MN trước mắt và lâu dài./.
 

Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS & MN

 giai đoạn 2021-2030

Định hướng mục tiêu đến năm 2030

- Thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số bằng 1/2 bình quân chung của cả nước;

- Giảm hộ nghèo xuống dưới 10%. Cơ bản không còn các xã, thôn đặc biệt khó khăn; 70% số xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đạt chuẩn nông thôn mới;

- Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số, hằng năm thu hút 3% lao động sang làm các ngành, nghề: Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch, dịch vụ. Đến năm 2030 có 40% lao động người dân tộc thiểu số biết làm các ngành, nghề: Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch, dịch vụ;

- Phấn đấu có 80% số hộ nông dân người dân tộc thiểu số làm kinh tế nông - lâm nghiệp hàng hóa;

- Xóa tình trạng nhà ở tạm, dốt nát; ngăn chặn tình trạng suy thoái môi trường sinh thái; duy trì, nâng cao tỷ lệ che phủ rừng;

- Trên 85% số xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có đủ cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của người dân;

- Giải quyết căn bản tình trạng di cư không theo kế hoạch trong đồng bào dân tộc thiểu số. Quy hoạch sắp xếp, di dời, bố trí 100% hộ dân tộc thiểu số đang cư trú phân tán, rải rác trong rừng đặc dụng, các khu vực xa xôi, hẻo lánh, nơi có nguy cơ xảy ra lũ ống, lũ quét, sạt lở;

- Cơ bản hoàn thành chỉ tiêu đã đề ra trong Mục tiêu quốc gia về phát triển bền vững đến năm 2030.

Theo: Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội

Trang Nguyễn


Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top