1. Sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông nghiệp trong tháng 4/2022 tập trung chăm sóc cây trồng vụ đông xuân tại các địa phương phía Bắc; thu hoạch lúa, hoa màu vụ đông xuân và gieo trồng lúa hè thu tại các địa phương phía Nam. Chăn nuôi đang trong đà hồi phục nhưng gặp khó khăn do giá thức ăn chăn nuôi tăng cao. Thời tiết trong tháng thuận lợi cho việc trồng rừng, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác đạt 1,6 triệu m3, tăng 5,9%. Nuôi trồng thủy sản phát triển khá trong thả nuôi mới và thu hoạch sản phẩm. Dịch Covid-19 đã được kiểm soát nên thị trường tiêu thụ sản phẩm nông sản, lâm sản, thủy sản được khơi thông, mở rộng.
a) Nông nghiệp
Lúa đông xuân
Tính đến ngày 15/4, cả nước gieo cấy được 2.990,5 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 99,5% cùng kỳ năm trước, trong đó: Các địa phương phía Bắc gieo cấy 1.077,9 nghìn ha, bằng 99,3%; các địa phương phía Nam gieo cấy 1.912,6 nghìn ha, bằng 99,6%.
Các địa phương phía Bắc đã cơ bản hoàn tất công tác gieo cấy lúa đông xuân. Do thực hiện tốt công tác chăm sóc ngay từ khi gieo cấy cùng với thời tiết thuận lợi nên lúa đông xuân sinh trưởng và phát triển tốt. Vùng Đồng bằng sông Hồng đã gieo cấy được 484,5 nghìn ha, bằng 98,5% cùng kỳ năm trước (giảm 7,2 nghìn ha), chủ yếu do chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang đất phi nông nghiệp và đất trồng cây lâu năm. Vùng Trung du và miền núi phía Bắc gieo cấy được 244,1 nghìn ha, bằng 100,3% so với cùng kỳ năm trước; vùng Bắc Trung bộ gieo cấy được 349,3 ha, bằng 99,7%.
Tại phía Nam, vùng Đồng bằng sông Cửu Long diện tích gieo cấy lúa đông xuân năm nay đạt 1.506,9 nghìn ha, giảm 12,7 nghìn ha so với vụ đông xuân năm trước chủ yếu do ảnh hưởng của hạn mặn nên các địa phương chủ động không xuống giống lúa mà chuyển sang trồng rau màu, cây ăn quả cho giá trị kinh tế cao hơn hoặc nuôi trồng thủy sản. Một số tỉnh có diện tích lúa đông xuân giảm nhiều là: Bến Tre giảm 10,2 nghìn ha; Đồng Tháp giảm 6,8 nghìn ha; Tiền Giang giảm 2,5 nghìn ha. Đến trung tuần tháng Tư, các địa phương phía Nam đã thu hoạch được 1.561,9 nghìn ha lúa đông xuân, chiếm 81,7% diện tích gieo cấy và bằng 104,3% cùng kỳ năm trước. Trong đó, vùng Đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch được 1.373,5 nghìn ha, chiếm 91,1% diện tích gieo cấy và bằng 103,8% cùng kỳ năm 2021.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của mưa trái mùa trên diện rộng, diện tích lúa đông xuân của một số địa phương đã bị ảnh hưởng lớn: Thừa Thiên Huế 20,5 nghìn ha và Quảng Trị 10,5 nghìn ha lúa bị ngập; Quảng Nam 2.983 ha lúa bị mất trắng và 1.597 ha lúa bị thiệt hại; Bình Định 181,1 ha bị mất trắng và 12,8 nghìn ha bị thiệt hại.
Lúa hè thu
Trên những diện tích lúa đông xuân đã thu hoạch, các địa phương tiến hành vệ sinh đồng ruộng, cày ải, phơi đất để xuống giống vụ hè thu. Tính đến 15/4, các địa phương phía Nam gieo cấy được 395,9 nghìn ha lúa hè thu, bằng 110,7% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 387,5 nghìn ha, bằng 109,8%. Tiến độ gieo cấy lúa hè thu nhanh hơn cùng kỳ năm 2021 do người dân tranh thủ xuống giống sớm để tránh hạn mặn. Hiện nay, lúa hè thu đang ở giai đoạn mạ đến làm đòng, cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt. Tuy nhiên, vụ hè thu thường chịu ảnh hưởng của nắng nóng, hạn hán, có thể xảy ra tình trạng thiếu nước tại các tỉnh Trung Bộ, Tây Nguyên trong các tháng mùa khô. Do vậy, các địa phương cần áp dụng kỹ thuật canh tác tiên tiến, bảo đảm nguồn nước tưới cho cây lúa, rà soát cơ cấu mùa vụ và điều chỉnh thời vụ gieo trồng đảm bảo khung thời vụ tốt nhất cho vụ mùa tiếp theo.
Cây hàng năm
Cùng với việc gieo cấy lúa, các địa phương trên cả nước đang tiến hành gieo trồng cây hoa màu. Trong đó, diện tích khoai lang và đậu tương, lạc tiếp tục giảm so với cùng kỳ năm trước chủ yếu do hiệu quả kinh tế không cao nên người dân có xu hướng chuyển dịch sang trồng ngô và rau đậu các loại.
Hình 1. Diện tích gieo trồng một số cây hàng năm
(Tính đến trung tuần tháng Tư)
Chăn nuôi
Chăn nuôi trâu, bò trong tháng phát triển ổn định. Chăn nuôi lợn và gia cầm đang hồi phục do các doanh nghiệp, trang trại, hộ chăn nuôi chủ động được nguồn giống, liên kết tiêu thụ sản phẩm đầu ra, đảm bảo vệ sinh, an toàn sinh học. Tuy nhiên, ngành chăn nuôi vẫn gặp khó khăn do giá thức ăn ở mức cao, nguy cơ tái phát dịch tả lợn châu Phi lớn, vì vậy cần có các biện pháp phòng và xử lý dịch hiệu quả, nhất là trong giai đoạn thời tiết thay đổi, chuyển mùa.
Hình 2. Tốc độ tăng số lượng gia súc, gia cầm
cuối tháng 4/2022 so với cùng thời điểm năm trước
Tính đến ngày 24/4/2022, cả nước không còn dịch tai xanh và dịch lở mồm long móng; dịch cúm gia cầm còn ở 5 địa phương; dịch tả lợn châu Phi còn ở 27 địa phương và dịch viêm da nổi cục còn ở 4 địa phương chưa qua 21 ngày.
b) Lâm nghiệp
Tháng 4/2022, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước ước đạt 30,3 nghìn ha, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 7,8 triệu cây, tăng 2,1%. Thời tiết trong tháng thuận lợi nên các địa phương tích cực triển khai trồng rừng, một số tỉnh có tiến độ trồng rừng cao như: Yên Bái đạt 3,2 nghìn ha, tăng 24,5% so với cùng kỳ năm trước, Nghệ An 2,5 nghìn ha, tăng 7,9%, Thanh Hóa 2 nghìn ha, tăng 4,8%. Sản lượng gỗ khai thác tháng 4/2022 ước đạt 1,6 triệu m3, tăng 5,9%; sản lượng củi khai thác đạt 1,6 triệu ste, bằng cùng kỳ năm trước. Các địa phương có sản lượng gỗ khai thác cao như: Nghệ An đạt 114,5 nghìn m3, tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước, Thanh Hóa 80,5 nghìn m3, tăng 5,6%, Lạng Sơn 13,9 nghìn m3, tăng 7,8%. Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước ước đạt 67,2 nghìn ha, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 34,8 triệu cây, tăng 6,8%; sản lượng gỗ khai thác đạt 4,7 triệu m3, tăng 4,4%; sản lượng củi khai thác đạt 6,2 triệu ste, tăng 0,7%.
Tình hình thiệt hại rừng 4 tháng đầu năm 2022 giảm so cùng kỳ năm trước. Diện tích rừng bị thiệt hại[1] trong tháng ước tính 118,6 ha, giảm 0,1% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Diện tích rừng bị cháy là 4,3 ha, giảm 77,5%; diện tích rừng bị chặt phá là 114,3 ha, tăng 14,6%. Các tỉnh có diện tích rừng bị chặt phá cao trong tháng là: Kon Tum 26,1 ha, Nghệ An 20,2 ha, Đắk Lắk 12,5 ha. Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, diện tích rừng bị thiệt hại là 361,8 ha, giảm 25,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Diện tích rừng bị cháy là 13,7 ha, giảm 89,8% (diện tích rừng bị cháy cùng kỳ năm trước là 134 ha); diện tích rừng bị chặt phá là 348,1 ha, giảm 0,4%.
c) Thủy sản
Sản lượng thủy sản tháng Tư ước đạt 736,4 nghìn tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Cá đạt 528,6 nghìn tấn, tăng 2%; tôm đạt 99,2 nghìn tấn, tăng 7,8%; thủy sản khác đạt 108,6 nghìn tấn, tăng 1,3%.
Ước tính tháng 4 năm 2022, sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 380,4 nghìn tấn, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Cá đạt 252 nghìn tấn, tăng 5%; tôm đạt 86,5 nghìn tấn, tăng 9,2%; thủy sản khác đạt 41,9 nghìn tấn, tăng 4,2%.
Tính tới trung tuần tháng Tư, giá cá tra nguyên liệu tại Đồng bằng sông Cửu Long loại từ 0,8 - 1,1 kg/con dao động ở mức 31.000 - 32.500 đồng/kg[2], tăng hơn 10.000 đồng/kg so với cùng kỳ năm trước, tăng hơn 30% so với thời điểm đầu năm 2022. Sản lượng cá tra trong tháng ước đạt 125,4 nghìn tấn, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước. Giá tôm nguyên liệu tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long trong tháng giảm nhẹ so với tháng trước[3]. Mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh, siêu thâm canh hai giai đoạn, ứng dụng công nghệ cao ngày càng phát triển và mang lại hiệu quả, năng suất cao. Sản lượng tôm thẻ chân trắng tháng Tư ước đạt 60 nghìn tấn, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng tôm sú đạt 22,6 nghìn tấn, giảm 0,9%.
Sản lượng thủy sản khai thác tháng 4/2022 ước đạt 356 nghìn tấn, giảm 0,6% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Cá đạt 276,6 nghìn tấn, giảm 0,6%; tôm đạt 12,7 nghìn tấn, giảm 0,8%; thủy sản khác đạt 66,7 nghìn tấn, giảm 0,4%. Khai thác thủy sản biển trong tháng giảm do chi phí xăng, dầu tăng cao, thời tiết đầu tháng Tư bất lợi đối với đánh bắt xa bờ, các tỉnh Duyên hải miền Trung chịu ảnh hưởng bởi các đợt mưa lũ bất thường, sóng lớn. Sản lượng khai thác biển tháng Tư ước đạt 342 nghìn tấn, giảm 0,6% so với cùng kỳ năm trước.
Hình 3. Sản lượng thủy sản nuôi trồng và khai thác
2. Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp tháng Tư ước tính tăng 2% so với tháng trước và tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước do dịch Covid-19 đã được kiểm soát, các doanh nghiệp chủ động hơn về lao động và kế hoạch sản xuất kinh doanh, khắc phục khó khăn để phục hồi, mở rộng sản xuất. Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 4/2022 ước tính tăng 2% so với tháng trước[4] và tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, so với cùng kỳ năm trước, ngành chế biến, chế tạo tăng 11,3% (cao hơn tốc độ tăng 5,8% và 9,6% của cùng kỳ năm 2018 và 2019, những năm chưa có dịch Covid-19); sản xuất và phân phối điện tăng 2,8%; ngành khai khoáng tăng 2,3%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,4%.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, IIP ước tính tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2021 tăng 9,5%). Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 8,3% (cùng kỳ năm 2021 tăng 12,1%), đóng góp 6,5 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 6,6%, đóng góp 0,6 điểm phần trăm; ngành khai khoáng tăng 2,6%, đóng góp 0,4 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,1%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm trong mức tăng chung.
Chỉ số sản xuất 4 tháng đầu năm 2022 của một số ngành trọng điểm cấp II tăng cao so với cùng kỳ năm trước và có mức tăng cao hơn cùng kỳ năm 2019 (năm chưa có dịch Covid-19): Sản xuất trang phục tăng 20,1% (cùng kỳ năm 2019 tăng 7,9%); sản xuất thiết bị điện tăng 19,1% (cùng kỳ năm 2019 tăng 9,2%); sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 13,2% (cùng kỳ năm 2019 tăng 10,9%); sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) tăng 12,8% (cùng kỳ năm 2019 tăng 3,9%), sản xuất da và các sản phẩm liên quan tăng 12,8% (cùng kỳ năm 2019 tăng 8,3%); sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 11,1% (cùng kỳ năm 2019 giảm 3,4%); in, sao chép bản ghi các loại tăng 10,6% (cùng kỳ năm 2019 tăng 13,1%); sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 9,8% (cùng kỳ năm 2019 tăng 2,4%); sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 9,7% (cùng kỳ năm 2019 tăng 8,8%). Ở chiều ngược lại, chỉ số IIP của một số ngành giảm: Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 12,9%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị giảm 11,5%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế giảm 8,3%; khai khoáng khác giảm 4%; thoát nước và xử lý nước thải giảm 3,3%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 1,7%.
Biểu 1. Tốc độ tăng/giảm chỉ số IIP 4 tháng đầu năm các năm 2018-2022
so với cùng kỳ năm trước của một số ngành công nghiệp trọng điểm
%
|
2018
|
2019
|
2020
|
2021
|
2022
|
Sản xuất trang phục
|
9,2
|
7,9
|
-6,5
|
8,1
|
20,1
|
Sản xuất thiết bị điện
|
13,1
|
9,2
|
-5,2
|
13,3
|
19,1
|
Sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân
vào đâu
|
5,2
|
10,9
|
-8,0
|
13,9
|
13,2
|
Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan
|
9,1
|
8,3
|
-0,3
|
9,6
|
12,8
|
Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn
(trừ máy móc, thiết bị)
|
15,8
|
3,9
|
2,5
|
10,5
|
12,8
|
Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu
|
7,5
|
-3,4
|
26,4
|
2,4
|
11,1
|
In, sao chép bản ghi các loại
|
6,3
|
13,1
|
-0,4
|
-5,4
|
10,6
|
Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính
và sản phẩm quang học
|
23,6
|
2,4
|
10,5
|
14,6
|
9,8
|
Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy
|
10,1
|
8,8
|
9,8
|
11,0
|
9,7
|
Khai thác than cứng và than non
|
9,3
|
15,0
|
6,5
|
-4,3
|
9,3
|
Khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên
|
-3,1
|
-4,4
|
-10,8
|
-9,9
|
-1,7
|
Thoát nước và xử lý nước thải
|
7,0
|
4,6
|
2,5
|
-3,5
|
-3,3
|
Khai khoáng khác
|
-0,1
|
-1,5
|
-2,8
|
3,8
|
-4,0
|
Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế
|
4,5
|
78,1
|
16,5
|
-2,5
|
-8,3
|
Sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc
và thiết bị
|
0,1
|
0,9
|
-11,3
|
5,6
|
-11,5
|
Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic
|
2,3
|
13,3
|
1,0
|
12,5
|
-12,9
|
Chỉ số sản xuất công nghiệp 4 tháng đầu năm 2022 so với cùng kỳ năm trước tăng ở 61 địa phương và giảm ở 02 địa phương trên cả nước.
Hình 4. Tốc độ tăng/giảm IIP 4 tháng đầu năm 2022
so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương (%)
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực trong 4 tháng đầu năm 2022 tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Bột ngọt và linh kiện điện thoại cùng tăng 21,5%; thép thanh, thép góc tăng 15,2%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 13,5%; phân u rê tăng 13,2%; Alumin tăng 12,7%; quần áo mặc thường tăng 12,3%; ô tô tăng 12%; thủy hải sản chế biến tăng 11,3%; sữa tươi tăng 9,7%; thép cán tăng 9,6%; than sạch tăng 9,3%. Ở chiều ngược lại, một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước: Tivi giảm 18,9%; điện thoại di động giảm 9,9%; xăng, dầu giảm 9,7%; vải dệt từ sợi nhân tạo giảm 9,1%; thức ăn cho thủy sản giảm 8,4%; sắt, thép thô giảm 5,8%; sơn hóa học giảm 2,6%; khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 2,1%; dầu mỏ thô khai thác giảm 1,1%.
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/4/2022 tăng 1,3% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 3,9% so với cùng thời điểm năm trước. Trong đó, lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 0,2% và giảm 3,9%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 1,1% và giảm 2,4%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 1,5% và tăng 5,3%. Theo ngành hoạt động, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng tăng 0,3% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 1,8% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 1,4% và tăng 4,3%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí không đổi và tăng 0,7%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải không đổi và tăng 1,8%.
3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp[5]
Trong tháng Tư, hoạt động khởi sự kinh doanh khởi sắc mạnh mẽ. Số doanh nghiệp thành lập mới lần đầu tiên chạm mốc 15 nghìn doanh nghiệp, nếu tính cả số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động thì số doanh nghiệp tham gia thị trường trong tháng Tư gấp hơn 2 lần so với doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, số doanh nghiệp thành lập mới tăng 12,3% so với cùng kỳ năm 2021; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng 60,6% và số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể giảm 17,5%. Kết quả trên cho thấy các giải pháp điều hành chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội đã tạo được niềm tin cho người dân và cộng đồng doanh nghiệp.
Trong tháng Tư, cả nước có 15 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 164,1 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký gần 104,8 nghìn lao động, tăng 4,9% về số doanh nghiệp, giảm 15,3% về vốn đăng ký và tăng 11,7% về số lao động so với tháng 03/2022. So với cùng kỳ năm trước, tăng 0,9% về số doanh nghiệp, giảm 8,8% về số vốn đăng ký và tăng 10,7% về số lao động. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong tháng đạt 10,9 tỷ đồng, giảm 19,2% so với tháng trước và giảm 9,6% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, cả nước còn có 7.034 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 63,6% so với tháng trước và tăng 22,4% so với cùng kỳ năm 2021.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, cả nước có 49,6 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 635,3 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký 348,2 nghìn lao động, tăng 12,3% về số doanh nghiệp, tăng 1,2% về vốn đăng ký và tăng 2,3% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 4 tháng đầu năm 2022 đạt 12,8 tỷ đồng, giảm 9,9% so với cùng kỳ năm 2021. Nếu tính cả 1.345,5 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 17,1 nghìn doanh nghiệp tăng vốn, tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 4 tháng đầu năm 2022 là 1.980,8 nghìn tỷ đồng, tăng 39,4% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, còn có 30,9 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động (tăng 60,6% so với cùng kỳ năm 2021), nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 4 tháng đầu năm 2022 lên 80,5 nghìn doanh nghiệp, tăng 26,9% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân một tháng có 20,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.
Theo khu vực kinh tế, 4 tháng đầu năm nay có 711 doanh nghiệp thành lập mới thuộc khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước; 12,8 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực công nghiệp và xây dựng, tăng 5,3%; gần 36,1 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực dịch vụ, tăng 15,2%.
Hình 5. Tình hình đăng ký doanh nghiệp
Cũng trong tháng Tư, có 5.391 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 81,1% so với tháng trước và tăng 17,2% so với cùng kỳ năm 2021; có 3.762 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 52,1% và giảm 32,9%; có 1.227 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 13,9% và giảm 20,4%.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn 41 nghìn doanh nghiệp, tăng 44,6% so với cùng kỳ năm trước; 15 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 8,7%; gần 5,6 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 17,5%, trong đó có 13,3 nghìn doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, giảm 10,3%; 211 doanh nghiệp có quy mô vốn trên 100 tỷ đồng, tương đương cùng kỳ năm trước. Bình quân một tháng có gần 15,4 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
Biểu 2. Doanh nghiệp thành lập mới và giải thể 4 tháng đầu năm 2022
phân theo một số lĩnh vực hoạt động
|
Số lượng doanh nghiệp (Doanh nghiệp)
|
Tốc độ tăng/giảm so với cùng kỳ năm trước (%)
|
Thành lập mới
|
Giải thể
|
Thành lập mới
|
Giải thể
|
Bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy
|
17.620
|
2.044
|
19,9
|
-17,8
|
Công nghiệp chế biến chế tạo
|
6.470
|
605
|
14,5
|
-22,4
|
Xây dựng
|
5.684
|
458
|
-0,9
|
-25,0
|
Kinh doanh bất động sản
|
3.606
|
332
|
32,2
|
-3,8
|
Vận tải kho bãi
|
2.565
|
225
|
21,2
|
-29,0
|
Dịch vụ lưu trú và ăn uống
|
1.854
|
297
|
16,2
|
-22,3
|
Sản xuất phân phối, điện, nước, gas
|
403
|
129
|
-25,8
|
-9,8
|
4. Đầu tư
Trong tháng Tư, các Bộ, ngành và địa phương tập trung đẩy mạnh thực hiện vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước. Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước ước tăng 9,1% so với cùng kỳ. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam 4 tháng đầu năm 2022 ước đạt 5,92 tỷ USD, là giá trị cao nhất của 4 tháng các năm 2018-2022, tạo động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế năm 2022.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 4/2022 ước đạt 33,5 nghìn tỷ đồng, tăng 6,6% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn Trung ương quản lý đạt 6,2 nghìn tỷ đồng, tăng 10,5%; vốn địa phương quản lý 27,3 nghìn tỷ đồng, tăng 5,7%. Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước ước đạt 109,6 nghìn tỷ đồng, bằng 20,6% kế hoạch năm và tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2021 bằng 20% và tăng 18,4%). Cụ thể:
- Vốn đầu tư thực hiện do Trung ương quản lý đạt 18,4 nghìn tỷ đồng, bằng 18,1% kế hoạch năm và tăng 15,3% so với cùng kỳ năm trước.
Hình 6. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước
4 tháng đầu năm 2022 phân theo Bộ, ngành
Tỷ đồng
- Vốn đầu tư thực hiện do địa phương quản lý đạt 91,2 nghìn tỷ đồng, bằng 21,2% kế hoạch năm và tăng 8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó:
Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 60,3 nghìn tỷ đồng, bằng 20,2% và tăng 3,5% so với cùng kỳ năm 2021;
Vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 26,6 nghìn tỷ đồng, bằng 23,1% và tăng 20%;
Vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 4,3 nghìn tỷ đồng, bằng 27,2% và tăng 6,1%.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước 4 tháng đầu năm 2022 của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau:
Hình 7. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước
4 tháng đầu năm 2022 của một số địa phương
Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam[6] tính đến ngày 20/4/2022 bao gồm: Vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 10,81 tỷ USD, giảm 11,7% so với cùng kỳ năm trước.
Hình 8. Vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam
tính đến ngày 20/4 các năm 2018-2022
- Vốn đăng ký cấp mới có 454 dự án được cấp phép với số vốn đăng ký đạt 3,7 tỷ USD, tăng 0,7% về số dự án và giảm 56,3% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được cấp phép mới đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký đạt 2,46 tỷ USD, chiếm 66,5% tổng vốn đăng ký cấp mới; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 662 triệu USD, chiếm 17,9%; các ngành còn lại đạt 576,6 triệu USD, chiếm 15,6%.
Trong số 42 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong 4 tháng đầu năm 2022, Đan Mạch là nhà đầu tư lớn nhất với 1,32 tỷ USD, chiếm 35,7% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Xin-ga-po 793,6 triệu USD, chiếm 21,5%; Trung Quốc 495,4 triệu USD, chiếm 13,4%; Nhật Bản 256 triệu USD, chiếm 6,9%; Đài Loan 236,1 triệu USD, chiếm 6,4%.
- Vốn đăng ký điều chỉnh có 323 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư tăng thêm 5,29 tỷ USD, tăng 92,5% so với cùng kỳ năm trước.
Nếu tính cả vốn đăng ký mới và vốn đăng ký điều chỉnh của các dự án đã cấp phép từ các năm trước thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 5,85 tỷ USD, chiếm 65,1% tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 1,77 tỷ USD, chiếm 19,7%; các ngành còn lại đạt 1,37 tỷ USD, chiếm 15,2%.
- Vốn đăng ký góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 1.026 lượt với tổng giá trị góp vốn 1,82 tỷ USD, tăng 74,5% so cùng kỳ năm trước. Trong đó có 429 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị góp vốn là 899 triệu USD và 597 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 928,4 triệu USD. Đối với hình thức góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư vào hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 1,05 tỷ USD, chiếm 57,4% giá trị góp vốn; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 334,7 triệu USD, chiếm 18,3%; ngành còn lại 444,7 triệu USD, chiếm 24,3%.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam 4 tháng đầu năm 2022 ước tính đạt 5,92 tỷ USD, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 4,49 tỷ USD, chiếm 75,8% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 555 triệu USD, chiếm 9,4%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 498,4 triệu USD, chiếm 8,4%.
Hình 9. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện
4 tháng đầu năm các năm 2018-2022
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 4 tháng đầu năm 2022 có 34 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 285,8 triệu USD, gấp 2 lần so với cùng kỳ năm trước[7]; có 9 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn điều chỉnh tăng 41,9 triệu USD, giảm 89,6%[8].
Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và điều chỉnh) đạt 327,7 triệu USD, giảm 40% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 204,4 triệu USD, chiếm 62,4% tổng vốn đầu tư; khai khoáng đạt 33,5 triệu USD, chiếm 10,2%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm đạt 30,8 triệu USD; chiếm 9,4%.
Trong 4 tháng đầu năm 2022 có 16 quốc gia và vùng lãnh thổ nhận đầu tư của Việt Nam, trong đó: Lào là nước dẫn đầu với 64,5 triệu USD, chiếm 19,7% tổng vốn đầu tư; Xin-ga-po 35,9 triệu USD, chiếm 11%; Hoa Kỳ 35,8 triệu USD, chiếm 10,9%; Đức, Hà Lan, Pháp cùng đạt 34,7 triệu USD, cùng chiếm 10,6%.
5. Thu, chi ngân sách Nhà nước[9]
Thu ngân sách Nhà nước 4 tháng đầu năm 2022 tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước. Chi ngân sách Nhà nước tăng 2,4% so với cùng kỳ năm 2021, đảm bảo các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, thanh toán các khoản nợ đến hạn cũng như chi trả kịp thời cho các đối tượng theo quy định.
Hình 10. Thu, chi ngân sách Nhà nước 4 tháng đầu năm 2022
Thu ngân sách Nhà nước:
Tổng thu ngân sách Nhà nước tháng 4/2022 ước đạt 160,2 nghìn tỷ đồng. Lũy kế tổng thu ngân sách Nhà nước 4 tháng đầu năm 2022 đạt 645,3 nghìn tỷ đồng, bằng 45,7% dự toán năm và tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số khoản thu chính như sau:
- Thu nội địa tháng 4/2022 ước đạt 129,5 nghìn tỷ đồng. Lũy kế 4 tháng đầu năm đạt 520,3 nghìn tỷ đồng, bằng 44,2% dự toán năm và tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước.
- Thu từ dầu thô tháng 4/2022 ước đạt 6,6 nghìn tỷ đồng; lũy kế 4 tháng đầu năm 2022 đạt 24,1 nghìn tỷ đồng, bằng 85,4% dự toán năm và tăng 93,4% so với cùng kỳ năm trước.
- Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu tháng 4/2022 ước đạt 24,1 nghìn tỷ đồng; lũy kế 4 tháng đầu năm 2022 đạt 100,9 nghìn tỷ đồng, bằng 50,7% dự toán năm và tăng 27,1% so với cùng kỳ năm trước.
Chi ngân sách Nhà nước:
Tổng chi ngân sách Nhà nước tháng 4/2022 ước đạt 132,8 nghìn tỷ đồng; lũy kế 4 tháng đầu năm 2022 ước đạt 470,2 nghìn tỷ đồng, bằng 26,3% dự toán năm và tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chi thường xuyên 4 tháng đầu năm 2022 đạt 340,3 nghìn tỷ đồng, bằng 30,6% dự toán năm và tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước; chi đầu tư phát triển đạt 95,7 nghìn tỷ đồng, bằng 18,2% và tăng 11,3%; chi trả nợ lãi 33,8 nghìn tỷ đồng, bằng 32,6% và giảm 11,8%.
6. Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch
a) Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Hoạt động thương mại và dịch vụ tháng Tư khá sôi động khi đời sống sinh hoạt của người dân trở về trạng thái của những năm trước dịch Covid-19 do hiệu quả của chính sách mở cửa du lịch từ 15/3/2022 chuẩn bị cho SEA games 31 tổ chức vào tháng 5 năm nay. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Tư tăng 3,1% so với tháng trước và tăng 12,1% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, dịch vụ lưu trú, ăn uống và dịch vụ du lịch lữ hành phục hồi mạnh mẽ với doanh thu tăng lần lượt là 14,8% và 49,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Tư năm 2022 ước đạt 455,5 nghìn tỷ đồng, tăng 3,1% so với tháng trước và tăng 12,1% so với cùng kỳ năm trước, đạt quy mô và tốc độ tăng cao hơn so với cùng kỳ các năm trước khi xảy ra dịch Covid-19[10] do hoạt động thương mại và dịch vụ đã nhộn nhịp trở lại. Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 1.777,4 nghìn tỷ đồng, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 4,3% (cùng kỳ năm 2021 tăng 7,2%).
Biểu 4. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Nghìn tỷ đồng
|
Ước tính
Tháng 4
năm 2022
|
Ước tính
4 tháng
năm 2022
|
Tốc độ tăng/giảm so với
cùng kỳ năm trước (%)
|
|
|
Tháng 4
năm 2022
|
4 tháng
năm 2022
|
|
Tổng số
|
455,5
|
1.777,4
|
12,1
|
6,5
|
Bán lẻ hàng hóa
|
363,6
|
1.429,3
|
12,4
|
7,6
|
Dịch vụ lưu trú, ăn uống
|
45,5
|
170,9
|
14,8
|
5,2
|
Du lịch lữ hành
|
1,2
|
4,3
|
49,4
|
10,5
|
Dịch vụ khác
|
45,2
|
172,9
|
6,7
|
-0,6
|
|
|
|
|
|
|
Mặc dù tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng có quy mô 4 tháng đầu năm 2022 cao hơn nhưng tốc độ tăng vẫn thấp hơn so với cùng kỳ các năm trước khi xảy ra dịch bệnh.
Hình 11. Tổng mức bán lẻ hàng hóa
và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 4 tháng các năm 2018-2022
Doanh thu bán lẻ hàng hóa 4 tháng đầu năm 2022 tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, nhóm hàng lương thực, thực phẩm tăng 13,2%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 11,5%; phương tiện đi lại giảm 0,01%; may mặc giảm 3,5%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình giảm 4,6%. Doanh thu bán lẻ hàng hóa 4 tháng đầu năm 2022 so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương như sau: Bình Dương tăng 12,2%; Quảng Ninh tăng 11,9%; Cần Thơ tăng 9,4%; Hải Phòng tăng 9,3%; Bà Rịa - Vũng Tàu tăng 8,5%; Đồng Nai tăng 7,9%; Hà Nội tăng 6,4%; Khánh Hòa tăng 4,5%; Thành phố Hồ Chí Minh tăng 3,2%, Đà Nẵng tăng 2,8%.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 4 tháng đầu năm 2022 tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu của một số địa phương tăng/giảm như sau: Phú Yên tăng 22,5%; Khánh Hòa tăng 20,5%; Đồng Nai tăng 19,3%; Quảng Ninh tăng 14,4%; Cần Thơ tăng 12,1%; Hải Phòng tăng 5,7%; Hà Nội tăng 1,7%; Thành phố Hồ Chí Minh giảm 9,7%; Long An giảm 14,6%, Trà Vinh giảm 15,9%, Đà Nẵng giảm 18,2%; Tiền Giang giảm 30,1%.
Doanh thu du lịch lữ hành 4 tháng đầu năm 2022 tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước do Việt Nam đã mở cửa du lịch từ 15/3/2022 và tháng Tư có các kỳ nghỉ lễ nên nhu cầu du lịch tăng mạnh. Doanh thu của một số địa phương tăng/giảm như sau: Khánh Hòa tăng 370%; Quảng Nam tăng 71,1%; Cần Thơ tăng 46,4%; Quảng Bình tăng 29,6%; Hà Nội tăng 19,8%; Thành phố Hồ Chí Minh giảm 9,6%; Đà Nẵng giảm 22,5%.
Doanh thu dịch vụ khác 4 tháng đầu năm 2022 giảm 0,6% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể mức tăng/giảm của một số địa phương như sau: Bà Rịa - Vũng Tàu tăng 18,6%; Thanh Hóa tăng 17,3%; Quảng Ninh tăng 15,9%; Cần Thơ tăng 13,3%; Quảng Bình tăng 10,4%; Đà Nẵng tăng 5,8%; Hải Phòng tăng 5,1%; Hà Nội tăng 3,7%; Bình Dương giảm 1,4%; Vĩnh Phúc giảm 2,3%; Thừa Thiên - Huế giảm 3,2%; Thành phố Hồ Chí Minh giảm 12,8%; Nghệ An giảm 14,9%.
b) Xuất nhập khẩu hàng hóa[11]
Trong tháng Tư, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 65,45 tỷ USD, giảm 2,9% so với tháng trước và tăng 20,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 242,19 tỷ USD, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 16,4%; nhập khẩu tăng 15,7%[12]. Cán cân thương mại hàng hóa 4 tháng đầu năm ước tính xuất siêu 2,53 tỷ USD.
Hình 12. Xuất, nhập khẩu hàng hóa 4 tháng đầu năm 2022
Xuất khẩu hàng hóa
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa thực hiện tháng 3/2022 đạt 34,71 tỷ USD, cao hơn 651 triệu USD so với số ước tính.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 4/2022 ước đạt 33,26 tỷ USD, giảm 4,2% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 8,49 tỷ USD, giảm 2,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 24,77 tỷ USD, giảm 4,7%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng Tư tăng 25%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 20,5%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 26,6%.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 122,36 tỷ USD, tăng 16,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 31,77 tỷ USD, tăng 21,6%, chiếm 26% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 90,59 tỷ USD, tăng 14,7%, chiếm 74%.
Trong 4 tháng đầu năm 2022 có 22 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 86,9% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 6 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 63,1%).
Biểu 7. Trị giá một số mặt hàng xuất khẩu 4 tháng đầu năm 2022
|
Ước tính 4 tháng
năm 2022
(Triệu USD)
|
Tốc độ tăng/giảm
4 tháng năm 2022 so với
cùng kỳ năm trước (%)
|
Các mặt hàng đạt giá trị trên 5 tỷ USD
|
|
|
Điện thoại và linh kiện
|
21.075
|
15,9
|
Điện tử, máy tính và linh kiện
|
18.040
|
13,8
|
Máy móc thiết bị, dụng cụ PT khác
|
13.452
|
10,2
|
Dệt, may
|
11.778
|
21,6
|
Giày dép
|
7.344
|
12,6
|
Gỗ và sản phẩm gỗ
|
5.479
|
4,5
|
Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu 4 tháng đầu năm 2022, nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản chiếm 1,3%, tăng 0,4 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng công nghiệp chế biến chiếm 89%, giảm 0,5 điểm phần trăm; nhóm hàng nông sản, lâm sản chiếm 6,8%, giảm 0,5 điểm phần trăm; nhóm hàng thủy sản chiếm 2,9%, tăng 0,6 điểm phần trăm.
Hình 13. Cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu 4 tháng đầu năm 2022 phân theo nhóm hàng
Nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa thực hiện tháng 3/2022 đạt 32,66 tỷ USD, thấp hơn 9 triệu USD so với số ước tính.
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 4/2022 ước đạt 32,19 tỷ USD, giảm 1,5% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 11,02 tỷ USD, giảm 5,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 21,17 tỷ USD, tăng 0,6%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Tư tăng 15,5%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 10,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,3%.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 119,83 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 40,97 tỷ USD, tăng 14,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 78,86 tỷ USD, tăng 16,4%.
Trong 4 tháng đầu năm 2022 có 22 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 81,5% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Biểu 8. Trị giá một số mặt hàng nhập khẩu 4 tháng đầu năm 2022
|
Ước tính 4 tháng năm 2022
(Triệu USD)
|
Tốc độ tăng/giảm
4 tháng năm 2022 so với
cùng kỳ năm trước (%)
|
Các mặt hàng đạt giá trị trên 5 tỷ USD
|
|
|
Điện tử, máy tính và LK
|
28.928
|
30,0
|
Máy móc thiết bị, DC PT khác
|
13.929
|
-5,7
|
Điện thoại và linh kiện
|
7.437
|
20,8
|
Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu 4 tháng đầu năm 2022, nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm 93,9%, tăng 0,04 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng chiếm 45,2%, giảm 0,46 điểm phần trăm; nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu chiếm 48,8%, tăng 0,5 điểm phần trăm. Nhóm hàng vật phẩm tiêu dùng chiếm 6,1%, giảm 0,04 điểm phần trăm.
Hình 14. Cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu
4 tháng đầu năm 2022 phân theo nhóm hàng
Về thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa 4 tháng đầu năm 2022, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 35,7 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 37,1 tỷ USD. 4 tháng đầu năm 2022 xuất siêu sang EU ước đạt 10,4 tỷ USD, tăng 36,1% so với cùng kỳ năm trước; nhập siêu từ Trung Quốc 18 tỷ USD, tăng 2%; nhập siêu từ Hàn Quốc 15,2 tỷ USD, tăng 58,3%; nhập siêu từ ASEAN 5,8 tỷ USD, tăng 15,4%; nhập siêu từ Nhật Bản 790 triệu USD, tăng 57,7%.
Hình 15. Thị trường xuất nhập khẩu hàng hoá chủ yếu
4 tháng đầu năm 2022
Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng Ba xuất siêu 2,05 tỷ USD[13]; quý I xuất siêu 1,46 tỷ USD; tháng Tư ước tính xuất siêu 1,07 tỷ USD. Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 2,53 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 1,5 tỷ USD). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 9,2 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 11,73 tỷ USD.
c) Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Tư tăng nhẹ 0,18% so với tháng trước; tăng 2,09% so với tháng 12/2021 và tăng 2,64% so với cùng kỳ năm trước. Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng theo giá nguyên liệu đầu vào sản xuất; dịch vụ giáo dục tăng trở lại tại một số địa phương sau thời gian miễn giảm học phí; giá ăn uống ngoài gia đình và dịch vụ du lịch tăng theo nhu cầu tiêu dùng là những nguyên nhân chính làm CPI tháng Tư tăng.
Bình quân 4 tháng đầu năm 2022, CPI tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 0,89% của 4 tháng đầu năm 2021, nhưng thấp hơn mức tăng của 4 tháng đầu năm 2017-2020[14]; lạm phát cơ bản tăng 0,97%.
Hình 16. Tốc độ tăng/giảm CPI của tháng 4 và 4 tháng
các năm giai đoạn 2018-2022 (%)
Trong mức tăng 0,18% của CPI tháng 4/2022 so với tháng trước có 8 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng và 3 nhóm hàng có chỉ số giá giảm.
Tám nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm:
- Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch có mức tăng cao nhất với 1,16% do giá dịch vụ du lịch trọn gói tăng 5,22% so với tháng trước do nhu cầu du lịch tăng trở lại.
- Nhóm giáo dục tăng 0,96% (làm CPI chung tăng 0,06 điểm phần trăm), trong đó dịch vụ giáo dục tăng 1,07% do một số địa phương tăng học phí trở lại năm học 2021-2022 sau thời gian miễn, giảm do ảnh hưởng của dịch Covid-19[15].
- Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,58% do giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 2,02%[16]; giá tiền thuê nhà tháng Tư tăng 0,47%; giá gas tăng 2,63%[17]; giá dầu hỏa tăng 7,25%[18]. Ở chiều ngược lại giá điện sinh hoạt tháng Tư giảm 0,41%[19]; giá nước sinh hoạt giảm 2,11%.
- Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,32% do chủ yếu ở các mặt hàng có nhu cầu tiêu dùng tăng cao vào mùa hè: Giá máy điều hòa nhiệt độ tăng 0,34% so với tháng trước; giá quạt điện tăng 0,2%; giá tủ lạnh tăng 0,1%... Ở chiều ngược lại, bình nước nóng giảm 0,1% so với tháng trước và chăn, màn, gối giảm 0,15%.
- Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,22% do thời tiết chuyển nắng nóng nên nhu cầu tiêu dùng đồ uống giải khát tăng: Giá nước khoáng tăng 0,16%; nước giải khát có ga tăng 0,26%; nước quả ép tăng 0,28%. Rượu bia và thuốc hút lần lượt tăng 0,3% và 0,12% so với tháng trước.
- Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,18%, tập trung chủ yếu ở mặt hàng đồ dùng cá nhân như máy dùng điện chăm sóc cá nhân tăng 0,08%; dụng cụ cá nhân không dùng điện tăng 0,12%; dịch vụ hiếu hỉ tăng 0,26%.
- Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,12%.
- Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,03% do thời tiết giao mùa, các loại vi rút gây bệnh sinh sôi, người dân tăng mua các loại thuốc tăng cường hệ miễn dịch, trong đó giá nhóm thuốc vitamin, khoáng chất tăng 0,04%; nhóm thuốc giảm đau, hạ sốt, chống viêm tăng 0,36%; giá nhóm thuốc về đường tiêu hóa tăng 0,11%.
(2) Ba nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm gồm:
- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,05% (làm CPI chung giảm 0,02 điểm phần trăm), trong đó: Lương thực tăng 0,21%[20] (tác động CPI chung tăng 0,01 điểm phần trăm); thực phẩm giảm 0,32%[21] (tác động giảm 0,07 điểm phần trăm); ăn uống ngoài gia đình tăng 0,51%[22] (tác động CPI chung tăng 0,04 điểm phần trăm).
- Nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,12%.
- Nhóm giao thông giảm 0,59% (làm CPI chung giảm 0,06 điểm phần trăm) do ảnh hưởng của đợt điều chỉnh giá xăng dầu vào ngày 01/4/2022, 12/4/2022 và 21/4/2022 làm cho giá xăng giảm 2,5%; giá dầu diezen tăng 7,01%. Bên cạnh đó, giá dịch vụ giao thông công cộng tăng 3,72% do giá nhiên liệu tăng; giá dịch vụ bảo dưỡng phương tiện đi lại tăng 0,42%; phí thuê ô tô, xe máy tự lái tăng 0,32%; phí học bằng lái xe tăng 0,11%.
Lạm phát cơ bản[23] tháng 4/2022 tăng 0,44% so với tháng trước, tăng 1,47% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 4 tháng đầu năm 2022, lạm phát cơ bản tăng 0,97% so với cùng kỳ năm 2021, thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 2,1%), điều này phản ánh biến động giá tiêu dùng chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm và giá xăng, dầu.
Giá vàng trong nước biến động ngược chiều với giá vàng thế giới. Tính đến ngày 25/4/2022, bình quân giá vàng thế giới ở mức 1.950 USD/ounce, giảm 0,3% so với tháng 3/2022 do áp lực lợi suất trái phiếu tăng trở lại làm giảm sức hấp dẫn của vàng. Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 4/2022 tăng 0,73% so với tháng trước; tăng 12,28% so với cùng kỳ năm 2021; bình quân 4 tháng đầu năm 2022 tăng 5,65%.
Đồng đô la Mỹ trên thị trường thế giới tăng trong bối cảnh các nhà đầu tư kỳ vọng Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) sẽ quyết định đẩy mạnh việc nâng lãi suất trong thời gian tới. Tính đến ngày 25/4/2022, chỉ số đô la Mỹ trên thị trường quốc tế đạt mức 100,04 điểm, tăng 1,58 điểm so với tháng trước. Trong nước, giá đô la Mỹ bình quân trên thị trường tự do quanh mức 23.016 VND/USD. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 4/2022 tăng 0,07% so với tháng trước và giảm 0,64% so với cùng kỳ năm 2021; bình quân 4 tháng đầu năm 2022 giảm 0,66%.
d) Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận tải hành khách tháng Tư có mức tăng khá cao do dịch Covid-19 đã được kiểm soát cùng với chính sách mở cửa du lịch của Việt Nam từ ngày 15/3/2022 nên nhu cầu đi lại của người dân tăng; số lượng hành khách vận chuyển tăng 6,2% và hành khách luân chuyển tăng cao 13,2% so với cùng kỳ năm trước; vận tải hàng hóa duy trì tốc độ tăng 14,5% về vận chuyển và tăng 14,7% về luân chuyển.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, vận chuyển hành khách giảm 6,3% so với cùng kỳ năm trước, luân chuyển hành khách giảm 0,7% và vận chuyển hàng hóa tăng 4,8%, luân chuyển hàng hóa tăng 12%.
Vận tải hành khách tháng 4/2022 ước đạt 358,7 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 12,7% so với tháng trước và luân chuyển 17,2 tỷ lượt khách.km, tăng 19,8%. Tính chung 4 tháng đầu năm nay, vận tải hành khách đạt 1.224,8 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 6,3% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2021 tăng 3%) và luân chuyển 56,1 tỷ lượt khách.km, giảm 0,7% (cùng kỳ năm trướcgiảm 2,9%). Trong đó, vận tải trong nước đạt 1.224,6 triệu lượt khách, giảm 6,3% và 55,2 tỷ lượt khách.km, giảm 1,9%; vận tải ngoài nước đạt 211,4 nghìn lượt khách, tăng 383,2% và 864 triệu lượt khách.km, tăng 443%.
Xét theo ngành vận tải, hàng không và đường biển là 2 ngành có tốc độ tăng khá cao trong 4 tháng đầu năm nay, các ngành đường còn lại vẫn giảm so với cùng kỳ năm trước.
Biểu 5. Vận tải hành khách 4 tháng đầu năm 2022
phân theo ngành vận tải
|
Số lượt hành khách
|
Tốc độ tăng/giảm so với
cùng kỳ năm trước (%)
|
|
Vận chuyển
(Triệu HK)
|
Luân chuyển
(Tỷ HK.km)
|
Vận chuyển
|
Luân chuyển
|
Tổng số
|
1.224,8
|
56,1
|
-6,3
|
-0,7
|
Đường sắt
|
0,8
|
0,3
|
-15,6
|
-28,7
|
Đường biển
|
3,8
|
0,2
|
47,9
|
22,7
|
Đường thủy nội địa
|
79,8
|
1,5
|
-1,9
|
0,2
|
Đường bộ
|
1.125,9
|
40,6
|
-7,0
|
-8,7
|
Hàng không
|
14,5
|
13,5
|
26,3
|
36,0
|
Vận tải hàng hóa tháng 4/2022 ước đạt 155,4 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 4,2% so với tháng trước và luân chuyển 33,6 tỷ tấn.km, tăng 1,4%. Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, vận tải hàng hóa đạt 628,3 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2021 tăng 11,2%) và luân chuyển 129,9 tỷ tấn.km, tăng 12% (cùng kỳ năm trước tăng 11,2%). Trong đó, vận tải trong nước đạt 615,4 triệu tấn vận chuyển, tăng 4,9% và 78,9 tỷ tấn.km luân chuyển, tăng 16,1%; vận tải ngoài nước đạt 12,9 triệu tấn vận chuyển, giảm 0,7% và 51 tỷ tấn.km luân chuyển, tăng 6,2%.
Biểu 6. Vận tải hàng hóa 4 tháng đầu năm 2022 phân theo ngành vận tải
|
Sản lượng hàng hóa
|
Tốc độ tăng/giảm so với
cùng kỳ năm trước (%)
|
|
Vận chuyển
(Triệu tấn)
|
Luân chuyển
(Tỷ tấn.km)
|
Vận chuyển
|
Luân chuyển
|
Tổng số
|
628,3
|
129,9
|
4,8
|
12,0
|
Đường sắt
|
2,0
|
1,5
|
13,4
|
28,1
|
Đường biển
|
31,8
|
63,2
|
15,9
|
14,1
|
Đường thủy nội địa
|
115,6
|
28,7
|
8,5
|
17,4
|
Đường bộ
|
478,8
|
35,1
|
3,3
|
3,6
|
Hàng không
|
0,1
|
1,4
|
1,5
|
32,7
|
đ) Khách quốc tế đến Việt Nam[24]
Khách quốc tế đến Việt Nam tháng Tư[25] đạt 101,4 nghìn lượt người, gấp 2,4 lần so với tháng trước và gấp 5,2 lần so với cùng kỳ năm trước do Việt Nam đã mở cửa du lịch và nhiều đường bay quốc tế được khôi phục trở lại. Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, khách quốc tế đến nước ta đạt gần 192,4 nghìn lượt người, tăng 184,7% so với cùng kỳ năm trước.
Trong tổng số gần 192,4 nghìn lượt khách quốc tế đến Việt Nam 4 tháng đầu năm, khách đến bằng đường hàng không đạt 170,4 nghìn lượt người, chiếm 88,6% lượng khách quốc tế đến Việt Nam, gấp gần 4 lần so với cùng kỳ năm trước; bằng đường bộ đạt 21,9 nghìn lượt người, chiếm 11,4% và giảm 10,5%; bằng đường biển đạt 64 lượt người, chiếm 0,03% và giảm 58,7%.
Hình 17. Khách quốc tế đến Việt Nam 4 tháng đầu năm 2022 phân theo vùng lãnh thổ
7. Một số tình hình xã hội
a) Đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội
Theo kết quả sơ bộ từ Khảo sát mức sống dân cư, trong tháng 4 năm nay tỷ lệ hộ có thu nhập giảm so với cùng kỳ năm trước là 24,6% (trong đó 85,5% hộ gia đình đánh giá thu nhập giảm do ảnh hưởng của dịch Covid-19); tỷ lệ hộ có thu nhập không thay đổi là 43,6% và tỷ lệ hộ có thu nhập tăng là 31,8%. Bên cạnh đó, dịch Covid-19 đã ảnh hưởng phần lớn đến đời sống dân cư khi 74,8% hộ đang phải chịu những ảnh hưởng tiêu cực từ đại dịch Covid-19; chỉ có 2,3% hộ gia đình chịu ảnh hưởng tiêu cực từ dịch bệnh khác và 2% hộ gia đình chịu ảnh hưởng từ dịch bệnh đối với vật nuôi, cây trồng.
Các gói hỗ trợ do ảnh hưởng dịch Covid-19 tiếp tục được thực hiện. Tính đến ngày 25/4/2022, gói hỗ trợ theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 và Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 8/10/2021 của Chính phủ đạt hơn 43,2 nghìn tỷ đồng hỗ trợ cho 36,6 triệu lượt người lao động và 381,7 nghìn đơn vị sử dụng lao động/hộ kinh doanh; gói hỗ trợ theo Nghị quyết số 116/NQ-CP ngày 24/9/2021 của Chính phủ đã giải ngân hơn 38,4 nghìn tỷ đồng hỗ trợ cho trên 13 triệu lượt lao động và 346,7 nghìn đơn vị/hộ kinh doanh sử dụng lao động.
b) Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
Theo báo cáo của Bộ Y tế, trong tháng (19/3-18/4/2022), cả nước có 4.785 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (04 trường hợp tử vong); 660 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 14 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút; 01 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu; 14 trường hợp sốt phát ban nghi sởi. Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, cả nước có 14.704 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (06 trường hợp tử vong); 1.066 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 42 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút; 02 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu; 21 trường hợp sốt phát ban nghi sởi.
Số ca mắc mới và tử vong do dịch Covid-19 ở hầu hết các khu vực trên thế giới giảm[26], nhiều nước đang chủ động thích ứng và đẩy nhanh quá trình trở lại cuộc sống trước đại dịch. Tại Việt Nam, tình hình dịch đã có những diễn biến tích cực, có xu hướng giảm mạnh ở cả bốn tiêu chí: số ca mắc trong cộng đồng, số ca tử vong, số ca đang điều trị tại bệnh viện, số ca nặng, nguy kịch. Tính đến 16h00 ngày 26/4/2022, Việt Nam có 10.620,2 nghìn trường hợp mắc, trong đó 9.116,2 nghìn trường hợp đã được chữa khỏi và hơn 43 nghìn trường hợp tử vong.
Từ ngày 21/4/2022 nhiều địa phương trên cả nước đã đồng loạt tổ chức tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi. Tính đến ngày 25/4/2022, tổng số liều vắc xin phòng Covid-19 đã được tiêm là 213.061,7 nghìn liều, trong đó tiêm mũi 1 là 81.210,6 nghìn liều; tiêm mũi 2 là 77.079,1 nghìn liều; tiêm mũi 3 (tiêm bổ sung, tiêm nhắc lại và mũi 3 liều cơ bản) là 54.772 nghìn liều.
Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 18/4/2022 là 215.572 người và số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 111.396 người.
Về ngộ độc thực phẩm, trong tháng Tư xảy ra 03 vụ với 157 người bị ngộ độc (01 người tử vong). Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, cả nước xảy ra 07 vụ với 248 người bị ngộ độc (01 người tử vong).
c) Tai nạn giao thông[27]
Trong tháng Tư (từ 15/3-14/4/2022), trên địa bàn cả nước xảy ra 1.046 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 737 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 309 vụ va chạm giao thông, làm 600 người chết, 380 người bị thương và 310 người bị thương nhẹ. So với tháng trước, số vụ tai nạn giao thông tăng 32,7% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên tăng 32,6% và số vụ va chạm giao thông tăng 33,2%); số người chết tăng 22,2%; số người bị thương tăng 50,8% và số người bị thương nhẹ tăng 35,4%. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tháng Tư tăng 3,2% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên tăng 13,7% và số vụ va chạm giao thông giảm 15,6%); số người chết tăng 21,7%; số người bị thương tăng 12,1% và số người bị thương nhẹ giảm 20,1%.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, trên địa bàn cả nước xảy ra 3.808 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 2.703 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 1.105 vụ va chạm giao thông, làm 2.276 người chết, 1.327 người bị thương và 1.104 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông trong 4 tháng đầu năm nay giảm 9,8% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 0,7%; số vụ va chạm giao thông giảm 26,2%); số người chết tăng 5,1%; số người bị thương giảm 9,2% và số người bị thương nhẹ giảm 33,2%. Bình quân 1 ngày trong 4 tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 31 vụ tai nạn giao thông, gồm 22 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 9 vụ va chạm giao thông, làm 19 người chết, 11 người bị thương và 9 người bị thương nhẹ.
d) Thiệt hại do thiên tai[28]
Thiệt hại do thiên tai trong tháng Tư chủ yếu do ảnh hưởng của mưa lớn, ngập lụt, sạt lở đất làm 16 người chết và mất tích, 10 người bị thương; 1,1 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và hư hỏng; 81,4 nghìn ha lúa và 12,2 nghìn hoa màu bị hư hỏng; tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong tháng là 2.760,5 tỷ đồng, gấp 62,3 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Một số địa phương chịu thiệt hại nặng nề như: Thừa Thiên - Huế thiệt hại 872,2 tỷ đồng; Quảng Trị thiệt hại 791,4 tỷ đồng; Quảng Nam thiệt hại 425,7 tỷ đồng; Phú Yên thiệt hại 355,9 tỷ đồng...
Tính chung 4 tháng đầu năm nay, thiên tai làm 19 người chết và mất tích, 11 người bị thương; 2,6 nghìn ngôi nhà bị sập đổ và hư hỏng; 119,9 nghìn ha lúa và 16,4 nghìn ha hoa màu bị hư hỏng; tổng giá trị thiệt hại về tài sản ước tính hơn 3.593 tỷ đồng, gấp 41,6 lần cùng kỳ năm 2021.
đ) Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ
Trong tháng 04/2022, cơ quan chức năng đã phát hiện 1.191 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 947 vụ với tổng số tiền phạt hơn 17,7 tỷ đồng, tăng 30,6% so với tháng trước và tăng 1,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm nay đã phát hiện 7.259 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 6.086 vụ với tổng số tiền phạt là 83,4 tỷ đồng, tăng 11,2% so với cùng kỳ năm trước.
Trong tháng[29], cả nước xảy ra 134 vụ cháy, nổ, làm 11 người chết và 5 người bị thương, thiệt hại ước tính 22,5 tỷ đồng, tăng 111,4% so với tháng trước và giảm 70,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, trên địa bàn cả nước xảy ra 580 vụ cháy, nổ, làm 34 người chết và 35 người bị thương, thiệt hại ước tính 79,3 tỷ đồng, giảm 66,7% so với cùng kỳ năm trước./.
Nguồn: Tổng cục Thống kê
[1] Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ngày 25/4/2022.
[2] Nguồn: http://agromonitor.vn/group/48/280/giam-sat-gia.
[3] Giá tôm thẻ chân trắng loại 100 con/kg dao động ở mức từ 92.000 - 100.000 đồng/kg; cỡ 80 con/kg dao động từ 105.000 - 115.000 đồng/kg; giá tôm sú loại 20 con/kg dao động trong khoảng 260.000-280.000 đồng/kg. Nguồn: https://thuysanvietnam.com.vn/gia-tom-nguyen-lieu-tuan-11-17-04-2022/
[4] Tốc độ tăng chỉ số IIP tháng 4/2022 so với tháng trước của một số địa phương có quy mô công nghiệp lớn là: Hưng Yên tăng 11,2%; Hải Dương tăng 9,5%; Long An tăng 9%; Bình Dương tăng 7,3%; Bắc Giang tăng 5,5%; Hà Nội và Thái Nguyên cùng tăng 5%; Quảng Ninh tăng 3,7%; Hải Phòng tăng 2,4%; Thành phố Hồ Chí Minh tăng 2%...
[5] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ngày 22/4/2022.
[6]Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhận ngày 22/04/2022.
[7] Vốn đầu tư ra nước ngoài cấp mới 4 tháng năm 2022 tăng mạnh so với cùng kỳ do 4 tháng đầu năm 2022 có 05 dự án lớn mới được cấp GCNĐKĐT là dự án Công ty cổ phần giải pháp năng lượng Vines sang Mỹ, Canada, Pháp, Đức, Hà Lan với tổng vốn đầu tư mỗi dự án trên 34,68 triệu USD.
[8] Vốn đầu tư điều chỉnh giảm mạnh trong 4 tháng năm 2022 do trong 4 tháng năm 2021 có nhiều dự án lớn điều chỉnh tăng vốn: dự án của Vingroup tại Hoa Kỳ điều chỉnh tăng 300 triệu USD; dự án Công ty TNHH Đầu tư và phát triển cao su Đông Dương tại Cam-pu-chia tăng 76 triệu USD và 01 dự án của Vinfast tại Đức tăng 32 triệu USD (nếu không kể trường hợp giảm vốn hơn 30 triệu USD trong tháng 4/2021 thì riêng 3 trường hợp này đã chiếm tới 94,1% tổng vốn điều chỉnh của 4 tháng năm 2021).
[9] Theo Báo cáo tình hình cân đối Ngân sách Nhà nước 4 tháng đầu năm 2022 của Bộ Tài chính.
[10] Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2018 đạt 358,3 nghìn tỷ đồng, tăng 11,5% so với cùng kỳ năm trước; năm 2019 đạt 396,5 nghìn tỷ đồng, tăng 10,7%.
[11] Ước tính tổng trị giá xuất khẩu, nhập khẩu tháng 4/2022 do Tổng cục Hải quan cung cấp ngày 26/4/2022. Tổng cục Thống kê ước tính trị giá xuất, nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu tháng 4/2022 dựa trên số liệu sơ bộ về trị giá xuất, nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu đến hết ngày 15/4/2022 do Tổng cục Hải quan cung cấp.
[12] Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa 4 tháng đầu năm 2021 đạt 208,7 tỷ USD, tăng 30,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 105,1 tỷ USD, tăng 29,7%; nhập khẩu đạt 103,6 tỷ USD, tăng 32,1%.
[13] Ước tính tháng Ba xuất siêu 1,39 tỷ USD.
[14] Tốc độ tăng CPI bình quân 4 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước các năm 2017-2020 lần lượt là: tăng 4,8%; tăng 2,8%; tăng 2,71%; tăng 4,9%.
[15] Tốc độ tăng chỉ số giá nhóm dịch vụ giáo dục tháng 4/2022 so với tháng trước của một số địa phương: Hà Nội tăng 1,98%; Nghệ An tăng 19,89%; Bình Định tăng 10,22%; Phú Yên tăng 21,08%; Kiên Giang tăng 6,1%.
[16] Giá thép tăng khi giá nguyên liệu từ quặng sắt, thép phế liệu… tăng mạnh; giá nguyên vật liệu đầu vào trong sản xuất xi măng như xăng dầu và than đá tăng cao. Bên cạnh đó, giá một số sản phẩm vật liệu xây dựng khác cũng tăng cao như đá, cát, gạch xây dựng.
[17] Từ ngày 01/4/2022, giá gas trong nước điều chỉnh tăng 14.000 đồng/bình 12 kg sau khi giá gas thế giới tăng 42,5 USD/tấn.
[18] Ảnh hưởng của đợt điều chỉnh giá ngày 01/4/2022, 12/4/2022 và 21/4/2022 làm giá dầu hỏa tăng 1.580 đồng/lít.
[19] Chỉ số giá điện sinh hoạt tháng 4/2022 được tính dựa trên doanh thu và sản lượng điện tiêu dùng từ ngày 01-31/3/2022, do đó phản ánh biến động trễ một tháng so với các mặt hàng khác.
[20] Giá gạo tăng 0,03% theo giá gạo xuất khẩu và giá vật tư phân bón, nguyên liệu đầu vào sản xuất ở mức cao. Bên cạnh đó, giá nguyên liệu đầu vào, giá cước vận chuyển tăng tác động đến giá các mặt hàng lương thực chế biến khác (giá mỳ sợi, mỳ, phở, cháo ăn liền tăng 0,38% so với tháng trước; bột mì tăng 0,77%; ngũ cốc ăn liền tăng 0,45%; bánh mì tăng 0,89%).
[21] Giá thịt lợn giảm 1,03% (tác động CPI chung giảm 0,04 điểm phần trăm) do nguồn cung đảm bảo trong khi nhu cầu ổn định (giá thịt quay, giò, chả giảm 0,12%; mỡ động vật giảm 1,56%); rau tươi, khô và chế biến giảm 2,75%; quả tươi và chế biến giảm 1,19%. Ở chiều ngược lại, giá thủy hải sản tươi sống tăng 0,16%; thịt gia cầm tăng 0,61%; giá nguyên liệu đầu vào và chi phí vận chuyển tăng nên giá dầu thực vật tăng 3,2%.
[22] Giá gas, giá xăng dầu cùng với giá nguyên liệu chế biến ở mức cao. Trong đó, chỉ số giá ăn ngoài gia đình tăng 0,55%; uống ngoài gia đình tăng 0,46% và đồ ăn nhanh mang đi tăng 0,33%.
[23] CPI sau khi loại trừ lương thực, thực phẩm tươi sống, năng lượng và mặt hàng do Nhà nước quản lý bao gồm dịch vụ y tế và giáo dục.
[24] Theo báo cáo của Cục cửa khẩu, Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng, Bộ Quốc phòng và Cục Xuất nhập cảnh, Bộ Công an.
[25] Kỳ báo cáo từ ngày 21/3/2022-20/4/2022.
[26] Tính đến 16h00 ngày 26/4/2022 trên thế giới có 510.138 nghìn trường hợp mắc Covid-19 (6.246 nghìn trường hợp tử vong).
[27] Theo báo cáo nhanh từ Văn phòng Bộ Công an và Cục Hàng hải Việt Nam (Bộ Giao thông vận tải) từ ngày 15/3 đến ngày 14/4/2022.
[28] Tổng hợp Báo cáo từ 63 Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, kỳ báo cáo từ ngày 19/3-18/4/2022.
[29] Theo báo cáo nhanh từ Bộ Công an ngày 23/04/2022.