Để cụ thể hóa các nhiệm vụ được quy định chi tiết tại một số điều của Luật Du lịch về công tác điều tra, đánh giá, phân loại tài nguyên du lịch. Đồng thời, hướng đến hình thành hệ thống cơ sở dữ liệu tài nguyên du lịch phục vụ cho công tác quản lý, lập quy hoạch, phát triển sản phẩm du lịch, phát triển các khu, điểm du lịch trên phạm vi cả nước, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Kế hoạch và Phương án điều tra tài nguyên du lịch theo Quyết định số 2654/QĐ-BVHTTDL ngày 12/09/2024.
Theo đó, mục đích của cuộc điều tra là nhằm thu thập thông tin về đặc điểm các loại tài nguyên du lịch trên phạm vi cả nước, kết hợp với nguồn thông tin hiện có về hiện trạng tài nguyên du lịch nhằm triển khai các nội dung về điều tra tài nguyên du lịch theo Điều 4, Nghị định số 168/2017/NĐ-CP ngày 31/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Du lịch quy định điều tra tài nguyên du lịch.
Yêu cầu của cuộc điều tra là thu thập thông tin, đánh giá phân loại tài nguyên cần triển khai toàn diện, thực hiện bài bản và chi tiết đến từng địa bàn, từng loại tài nguyên; phạm vi, nội dung điều tra phải đầy đủ. Các tiêu chí, phương pháp đánh giá đảm bảo tính chính xác, kịp thời để phục vụ cho công tác quản lý, bảo vệ và khai thác hiệu quả tài nguyên du lịch; tổ chức đánh giá, phân loại tài nguyên du lịch, lưu trữ kết quả điều tra để phục vụ cho công tác quản lý, khai thác, bảo vệ tài nguyên, thực hiện lập quy hoạch và phát triển sản phẩm du lịch, phát triển các khu, điểm du lịch.
Đối tượng điều tra gồm: Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm cảnh quan thiên nhiên, các yếu tố địa chất, địa mạo, khí hậu, thủy văn, hệ sinh thái và các yếu tố tự nhiên khác có thể được sử dụng cho mục đích du lịch. Tài nguyên du lịch văn hóa bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, di tích cách mạng, khảo cổ, kiến trúc; giá trị văn hóa truyền thống, lễ hội, văn nghệ dân gian và các giá trị văn hóa khác; công trình lao động sáng tạo của con người có thể được sử dụng cho mục đích du lịch.
Nhiệm vụ của công tác tổ chức điều tra tài nguyên du lịch bao gồm: Xây dựng kế hoạch, phương án điều tra; xây dựng phần mềm và các tài liệu hướng dẫn phục vụ công tác điều tra tài nguyên du lịch; tổ chức tập huấn công tác điều tra; tổ chức triển khai điều tra; tổ chức tổng hợp, đánh giá, phân loại tài nguyên du lịch; tổ chức công bố và lưu trữ kết quả điều tra…
Phương pháp điều tra gồm 2 phương pháp trực tiếp và gián tiếp. Theo đó, phương pháp trực tiếp thực hiện cùng cơ quan quản lý tại điểm tài nguyên tiến hành khảo sát, đo đạc, lấy thông tin về tài nguyên du lịch. Phương pháp gián tiếp, thu thập thông tin sẵn có từ các cơ quan, đơn vị quản lý tài nguyên du lịch.
Nội dung điều tra gồm 3 nhóm chỉ tiêu và thông tin chính: Thông tin chung về tài nguyên du lịch: Tên gọi, vị trí, phạm vi, diện tích đất (đất có mặt nước) đang sử dụng, chủ thể quản lý, sử dụng; hiện trạng khai thác và sử dụng tài nguyên du lịch; đặc điểm, tính chất, giá trị của tài nguyên du lịch.
Mẫu phiếu điều tra gồm 02 cấu phần (a và b). Theo đó, phần a, sử dụng chung để điều tra cho tất cả các loại tài nguyên du lịch để lấy thông tin về các thông tin chung và hiện trạng khai thác và sử dụng tài nguyên du lịch; phần b gồm 47 mẫu phiếu phù hợp với 77 loại tài nguyên du lịch theo danh mục tài nguyên du lịch để lấy thông tin điều tra về đặc điểm, tính chất, giá trị của tài nguyên du lịch do các yêu cầu thông tin mang tính kỹ thuật có sự khác biệt nhau.
Việc điều tra, đánh giá, phân loại tài nguyên du lịch trên phạm vi toàn bộ 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Thời điểm tiến hành điều tra từ năm 2024 (dự kiến thực hiện trong vòng 05 năm).
Mỗi tỉnh/thành phố được điều tra sẽ tiến hành khảo sát, điều tra, thu thập thông tin, căn cứ vào số lượng và danh mục tài nguyên du lịch để bố trí thời gian tổ chức điều tra, đánh giá phân loại tài nguyên bảo đảm phù hợp với mục tiêu chung.
Theo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, việc điều tra tài nguyên du lịch đóng vai trò quan trọng trong quá trình quản lý và phát triển ngành du lịch. Thông qua kết quả điều tra sẽ có được thông tin cơ sở dữ liệu chi tiết và đa chiều về tài nguyên du lịch, giúp công tác quản lý Nhà nước từ Trung ương đến địa phương thống nhất hiệu quả và bền vững trong lập quy hoạch, kế hoạch, khai thác và quản lý tài nguyên du lịch. Hiện, cả nước có hơn 40.000 di tích và khoảng gần 70.000 di sản văn hóa phi vật thể và 125 bãi tắm biển, hàng nghìn lễ hội, hang động, công viên địa chất, khu dự trữ sinh quyển. Đây là tài nguyên du lịch vô cùng phong phú, đa dạng, song cho đến nay chưa được điều tra, đánh giá phân loại bài bản, thống nhất, triệt để./.
PV