DỰ BÁO KINH TẾ TOÀN CẦU
Tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 được hầu hết các tổ chức quốc tế dự báo thấp hơn năm 2023
Đến thời điểm tháng 3/2024, hầu hết các tổ chức quốc tế đều hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024. Cụ thể, Liên hợp quốc (UN) nhận định trong bối cảnh rủi ro và bất ổn kéo dài, tăng trưởng GDP toàn cầu dự báo sẽ chậm lại từ mức 2,7% năm 2023 xuống 2,4% vào năm 2024; Ngân hàng Thế giới (WB) cùng nhận định tăng trưởng toàn cầu năm 2024 đạt 2,4%, giảm so với mức 2,6% trong năm 2023; Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) nhận định GDP toàn cầu năm 2024 dự báo đạt 2,9%, thấp hơn mức tăng trưởng 3,1% của năm 2023; Liên minh châu Âu (EU) dự báo tăng trưởng toàn cầu (không bao gồm EU) năm 2024 đạt 3,3%, giảm 0,2 điểm phần trăm so với năm 2023. Riêng Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2024 bằng với năm 2023, ở mức 3,1%.
Hình 1. Tăng trưởng toàn cầu năm 2022, ước tính năm 2023
và dự báo năm 2024 của các tổ chức quốc tế
* Số liệu năm 2022 theo báo cáo Triển vọng kinh tế OECD phát hành tháng 11/2023
* Tăng trưởng toàn cầu không bao gồm các quốc gia EU
Nguồn: EU, IMF, OECD, UN và WB
Tổng quan biến động thị trường thế giới
Thương mại hàng hóa toàn cầu tăng trưởng yếu trong năm 2024
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nhận định thương mại hàng hóa toàn cầu ghi nhận mức tăng khiêm tốn trong Quý I/2024. Chỉ số thước đo thương mại hàng hóa đạt 100,6 cao hơn một chút so với giá trị cơ bản là 100. Các chỉ số thành phần của thước đo thương mại hàng hóa hầu hết ở mức trung bình, với các chỉ số về đơn đặt hàng xuất khẩu (101,7) và vận tải hàng không (102,3) tăng nhẹ so với xu hướng trong khi các chỉ số vận chuyển container (98,6) và thương mại nguyên liệu thô (99,1) vẫn ở dưới xu hướng một chút. Chỉ số sản xuất và bán ô tô (106,3) cao so với xu hướng nhưng đang có dấu hiệu mất đà trong những tháng gần đây. Ngoài ra, sự phục hồi trong giao dịch linh kiện điện tử cũng giảm dần (95,6).
WB dự báo tăng trưởng thương mại toàn cầu tăng từ mức 0,2% năm 2023 lên 2,3% trong năm 2024, một phần phản ánh sự phục hồi của nhu cầu đối với hàng hóa, đặc biệt là hoạt động thương mại tại các nền kinh tế phát triển. OECD có cùng nhận định với WB, khi cho rằng thương mại toàn cầu vẫn trầm lắng nhưng đã bắt đầu có một số dấu hiệu cải thiện. Theo IMF tăng trưởng thương mại thế giới đạt 3,3% vào năm 2024, thấp hơn tốc độ tăng trưởng trung bình lịch sử là 4,9%.
Căng thẳng thương mại gia tăng và sự phân mảnh địa kinh tế dự kiến sẽ tiếp tục đè nặng lên tăng trưởng thương mại toàn cầu năm 2024, khi các quốc gia đã áp đặt khoảng 3.000 hạn chế vào năm 2023 (tăng so với mức 1.100 hạn chế năm 2019). Ngoài ra, các cuộc tấn công vào hoạt động vận tải biển ở Biển Đỏ đã khiến các luồng thương mại phải định tuyến lại, làm tăng chi phí vận chuyển và kéo dài thời gian giao hàng, đặc biệt đối với thương mại từ châu Á đến châu Âu. Điều này đã bắt đầu làm gián đoạn lịch trình sản xuất ở châu Âu, đặc biệt là đối với các nhà sản xuất ô tô.
Lạm phát toàn cầu tiếp tục xu hướng giảm về mức mục tiêu
Theo WB, lạm phát toàn cầu năm 2024 được dự báo ở mức 3,7%, tuy vẫn cao hơn mức trung bình trước đại dịch nhưng đang tiệm cận mức mục tiêu lạm phát của ngân hàng trung ương. Tương tự, IMF cho rằng lạm phát toàn cầu năm 2024 dự kiến đạt 5,8% (giảm so với mức 6,8% năm 2023), trong đó lạm phát tại các nền kinh tế phát triển và thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển lần lượt là 2,6% và 8,1%.
Giá trung bình của hầu hết các mặt hàng tính theo đồng đô la Mỹ đã giảm, nhưng vẫn ở trên mức trước đại dịch kể từ năm 2023 trong bối cảnh nhu cầu giảm. Giá dầu dự kiến sẽ giảm xuống còn 81 USD/thùng vào năm 2024, khi hoạt động toàn cầu chậm lại và nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục giảm tốc. Giá kim loại dự kiến sẽ giảm trong năm 2024, trước khi tăng vào năm 2025, khi lĩnh vực bất động sản của Trung Quốc ổn định và nhu cầu về kim loại được sử dụng trong quá trình chuyển đổi xanh tăng lên. Chỉ số giá lương thực, thực phẩm của FAO trong tháng 02/2024 ở mức 117,3 điểm, giảm 0,9 điểm (0,7%) so với tháng 01/2024, do chỉ số giá ngũ cốc và dầu thực vật giảm nhiều hơn so với mức tăng của giá đường, thịt và các sản phẩm từ sữa. So với cùng kỳ năm trước, chỉ số này đã giảm 13,8 điểm (10,5%). Dự kiến, sau khi giảm 9% trong năm 2024, giá lương thực sẽ tiếp tục giảm khoảng 1,0% trong năm 2024.
Điều kiện tài chính đã nới lỏng nhưng tăng trưởng tín dụng vẫn yếu
OECD cho rằng các điều kiện tài chính toàn cầu gần đây đã nới lỏng khi những người tham gia thị trường tài chính dự đoán lãi suất chính sách sẽ giảm nhanh hơn so với dự kiến. Lợi suất trái phiếu dài hạn giảm, biến động giá cổ phiếu cũng giảm dần. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng vẫn yếu do tác động của lãi suất cho vay vẫn cao và các tiêu chuẩn tín dụng ngày càng chặt chẽ hơn.
Trái ngược với xu hướng nới lỏng chính sách tài khóa trong năm 2023, IMF nhận định lập trường chính sách tài khóa năm 2024 dự kiến sẽ thắt chặt dần nhiều quốc gia từ phát triển tới đang phát triển nhằm tích lũy dư địa ngân sách, hạn chế gia tăng nợ, nhưng cũng sẽ khiến tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế này giảm trong thời gian tới.
Thị trường lao động phục hồi nhưng không đồng đều
Theo UN, thị trường lao động toàn cầu đã phục hồi nhanh chóng kể từ sau đại dịch. Đến năm 2023, tỷ lệ thất nghiệp ở nhiều nền kinh tế đã giảm xuống dưới mức trước đại dịch, đạt mức thấp gần như lịch sử ở Hoa Kỳ và một số nền kinh tế châu Âu. Tuy nhiên, sự phục hồi này không đồng đều khi thị trường lao động ở các nước đang phát triển tiếp tục phải đối mặt với những thách thức dai dẳng về việc làm phi chính thức, chênh lệch giới tính và tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên cao.
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) nhận định tăng trưởng việc làm cho thấy khả năng phục hồi của thị trường lao động. Trong năm 2023, nhờ tốc độ tăng trưởng việc làm mạnh mẽ, tỷ lệ thất nghiệp và khoảng cách việc làm đều giảm xuống dưới mức trước đại dịch. Tuy nhiên, triển vọng thị trường lao động trong thời gian tới bớt sáng sủa hơn khi tỷ lệ thất nghiệp dự kiến sẽ tăng nhẹ từ mức 5,1% năm 2023 lên 5,2% vào năm 2024.
Một số nhân tố rủi ro tác động tới triển vọng kinh tế thế giới
IMF chỉ ra bốn nhân tố rủi ro chính làm giảm triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong thời gian tới, gồm:
Thứ nhất, giá hàng hóa tăng đột biến trong bối cảnh những cú sốc địa chính trị và thời tiết. Xung đột ở Trung Đông có thể leo thang sâu hơn, ảnh hưởng tới các khu vực sản xuất khoảng 35% lượng dầu và 14% lượng khí đốt xuất khẩu của thế giới. Các cuộc tấn công liên tục ở Biển Đỏ, nơi chiếm 11% dòng chảy thương mại toàn cầu; và xung đột ở U-crai-na có nguy cơ tạo ra những cú sốc bất lợi mới về nguồn cung đối với sự phục hồi toàn cầu, do chi phí lương thực, năng lượng và vận chuyển tăng đột biến. Sự phân mảnh địa kinh tế hơn nữa cũng có thể hạn chế dòng hàng hóa xuyên biên giới, gây thêm biến động giá cả. Những cú sốc thời tiết cực đoan hơn, bao gồm lũ lụt và hạn hán, cùng với hiện tượng El Niño, cũng có thể khiến giá lương thực tăng vọt, làm trầm trọng thêm tình trạng mất an ninh lương thực và làm gián đoạn quá trình giảm lạm phát trên toàn cầu.
Thứ hai, lạm phát cơ bản kéo dài, đòi hỏi lập trường chính sách tiền tệ chặt chẽ hơn. Lạm phát cơ bản giảm chậm hơn dự kiến ở các nền kinh tế phát triển do thị trường lao động thắt chặt và căng thẳng gia tăng trong chuỗi cung ứng có thể khiến kỳ vọng về lãi suất tăng lên và làm giá tài sản giảm. Những diễn biến như vậy có thể làm tăng rủi ro về ổn định tài chính, thắt chặt các điều kiện tài chính toàn cầu, kích thích các dòng vốn chuyển sang nơi trú ẩn an toàn và củng cố đồng đô la Mỹ, gây ra những hậu quả bất lợi cho thương mại và tăng trưởng.
Thứ ba, tăng trưởng chững lại ở Trung Quốc. Nếu không có gói chính sách tái cơ cấu toàn diện cho lĩnh vực bất động sản đang gặp khó khăn, đầu tư bất động sản có thể giảm nhiều hơn dự kiến và kéo dài hơn, gây ra những tác động tiêu cực đến tăng trưởng trong nước và các đối tác thương mại. Việc thắt chặt tài chính ngoài dự kiến do những hạn chế về tài chính của chính quyền địa phương cũng có thể xảy ra khiến tiêu dùng của hộ gia đình giảm trong bối cảnh niềm tin bị suy giảm.
Thứ tư, các nền kinh tế chuyển hướng sang củng cố tài khóa. Củng cố tài khóa là cần thiết ở nhiều nền kinh tế để đối phó với tỷ lệ nợ gia tăng. Tuy nhiên, sự chuyển dịch quá mạnh mẽ sang tăng thuế và cắt giảm chi tiêu vượt quá dự kiến có thể dẫn đến tăng trưởng chậm hơn kỳ vọng trong thời gian tới. Phản ứng bất lợi của thị trường có thể gây áp lực khi thực hiện những điều chỉnh khắc nghiệt hơn tại các quốc gia có nền tảng tài khóa trung hạn thiếu vững chắc hoặc đang gặp khó khăn về nợ. Điều này dẫn tới hạn chế phạm vi đầu tư cần thiết nhằm thúc đẩy tăng trưởng.
TĂNG TRƯỞNG CỦA MỘT SỐ NỀN KINH TẾ
Hoa Kỳ
Các tổ chức quốc tế đều nhận định tăng trưởng kinh kế của Hoa Kỳ năm 2024 có xu hướng giảm so với mức 2,5% của năm 2023. Theo WB và UN tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ năm 2024 sẽ thấp hơn năm 2023 lần lượt 0,9 và 1,1 điểm phần trăm, đạt mức tăng trưởng tương ứng là 1,6% và 1,4%. IMF và OECD cùng nhận định tăng trưởng của Hoa Kỳ giảm 0,4 điểm phần trăm so với năm 2023, đạt 2,1% trong năm 2024.
Hình 2. Ước tính tăng trưởng của Hoa Kỳ năm 2023 và dự báo
tăng trưởng năm 2024 theo các tổ chức quốc tế
Nguồn: IMF, OECD, UN, WB
Theo Trading Economics, chỉ số PMI tổng hợp của Hoa Kỳ tháng 02/2024 đạt 52,5 điểm, tăng 0,5 điểm so với mức 52 điểm của tháng 01/2024, đánh dấu mức tăng cao nhất kể từ tháng 6/2023 do sản xuất của ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng mạnh, hoạt động của khu vực dịch vụ tăng cao kết hợp với số lượng đơn hàng xuất khẩu hàng hóa tăng.
Trading Economics dự báo tăng trưởng GDP Quý I/2024 của Hoa Kỳ tăng 2,0% so với quý trước và tăng 2,3% so với cùng kỳ năm 2023.
Khu vực đồng Euro
Các tổ chức quốc tế OECD, WB và IMF nhận định tăng trưởng kinh tế của khu vực đồng Euro dự báo sẽ phục hồi từ mức tăng trưởng thấp, ước đạt khoảng 0,5% năm 2023 lên mức dưới 1% trong năm 2024 (lần lượt đạt 0,6%, 0,7% và 0,9%). Riêng UN dự báo tăng trưởng GDP khu vực đồng Euro đạt 1,1% năm 2024.
Chỉ số PMI tổng hợp trong tháng 02/2024 của khu vực đồng Euro được điều chỉnh lên 49,2 điểm, cao hơn 1,3 điểm so với mức 47,9 điểm của tháng 01/2024. Đây là mức điểm cao nhất trong 8 tháng qua, phản ánh mức tăng lần đầu tiên của khu vực dịch kể từ tháng 7/2023.
Theo Trading Economics, GDP Quý I/2024 của khu vực đồng Euro dự báo tăng 0,2% so với Quý IV/2023 và tăng 0,5% so với cùng kỳ năm trước.
Hình 3. Ước tính tăng trưởng của khu vực đồng Euro năm 2023 và dự báo
tăng trưởng năm 2024 theo các tổ chức quốc tế
Nguồn: IMF, OECD, UN, WB
Nhật Bản
Các tổ chức quốc tế đều dự báo tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản năm 2024 sụt giảm so với năm 2023. WB và IMF dự báo tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản sẽ chậm lại từ mức 1,7% và 1,8% trong năm 2023 xuống 0,9% trong năm 2024. OECD và UN lạc quan hơn khi nhận định tăng trưởng GDP năm 2024 của Nhật Bản giảm nhẹ từ mức 1,9% và 1,7% năm 2023 xuống lần lượt 1% và 1,2%.
Chỉ số PMI tổng hợp tháng 02/2024 của Nhật Bản đạt 50,6 điểm, giảm so với mức 51,5 điểm trong tháng 01/2024, phản ánh mức giảm mạnh của đơn hàng chế biến chế tạo, mặc dù đã được bù đắp bởi mức tăng mạnh nhất của khu vực dịch vụ kể từ tháng 9/2023.
Trading Economics dự báo GDP Quý I/2024 của nền kinh tế Nhật Bản tăng 0,1% so với quý trước và tăng 1,2% so với cùng kỳ năm trước.
Hình 4. Ước tính tăng trưởng của Nhật Bản năm 2023 và dự báo
tăng trưởng năm 2024 theo các tổ chức quốc tế
Nguồn: IMF, OECD, WB, UN
Trung Quốc
Sau khi đạt mức tăng trưởng cao trong năm 2023, khoảng 5,2%-5,3%, các tổ chức quốc tế nhận định tăng trưởng của Trung Quốc năm 2024 sẽ chậm lại, chỉ đạt từ 4,5% - 4,7%. Theo đó, WB và IMF dự báo tăng trưởng năm 2024 của Trung Quốc đạt lần lượt 4,5% và 4,6%, trong khi UN và OECD cùng nhận định tăng trưởng kinh tế năm 2024 của Trung Quốc đạt 4,7%. Đây là mức tăng trưởng chậm nhất trong hơn ba thập kỷ qua trừ năm 2020 và 2022 do ảnh hưởng bởi đại dịch.
Chỉ số PMI tổng hợp của Trung Quốc trong tháng 02/2024 đạt 52,5 điểm, bằng với chỉ số của tháng trước đó, phản ánh tháng tăng trưởng thứ 4 liên tiếp của hoạt động khu vực tư nhân và tháng tăng thứ 2 liên tiếp của doanh thu ngoại thương.
Theo Trading Economics, GDP Quý I/2024 của nền kinh tế Trung Quốc dự báo tăng 0,9% so với Quý IV/2023 và tăng 5,0% so với cùng kỳ năm 2023.
Hình 5. Ước tính tăng trưởng của Trung Quốc năm 2023 và dự báo
tăng trưởng năm 2024 theo các tổ chức quốc tế
Nguồn: IMF, OECD, UN, WB
Đông Nam Á
Theo báo cáo “Triển vọng kinh tế khu vực ASEAN+3” của Văn phòng Nghiên cứu Kinh tế Vĩ mô ASEAN+3 (AMRO), ASEAN+3 được dự báo sẽ tăng trưởng 4,5% trong năm 2024 do ngoại thương được cải thiện sẽ hỗ trợ thêm cho nhu cầu trong nước vững chắc. Lạm phát sẽ tiếp tục ở mức vừa phải vào năm 2024.
Hình 6. Dự báo tăng trưởng năm 2024 của các quốc gia ASEAN
Nguồn: AMRO
Như vậy, tăng trưởng năm 2024 của Việt Nam được nhận định đứng thứ 3 khu vực, đạt 6,0%, chỉ sau Phi-li-pin (6,3%) và Cam-pu-chia (6,2%). Trong số các quốc gia, tăng trưởng của Bru-nây được dự báo thấp nhất ở mức 2,4%.
Theo Trading Economics, dự báo tăng trưởng Quý I/2024 so với cùng kỳ năm trước của In-đô-nê-xi-a đạt 4,4%; Ma-lai-xi-a 2,6%; Phi-li-pin 5,9%; Thái Lan 2,8%, Xin-ga-po 1,1%. Tăng trưởng Quý I/2024 so với quý trước của các quốc gia trên lần lượt là -0,5%; 0,9%; 1,1%; 0,8% và 0,8%.
Việt Nam
Đối với Việt Nam, trái ngược với xu hướng tăng trưởng giảm so với năm trước, các tổ chức quốc tế đều dự báo tăng trưởng của Việt Nam năm 2024 tăng so với năm 2023. Cụ thể, WB dự báo tăng trưởng của Việt Nam đạt 5,5% trong năm 2024, cao hơn mức dự báo 4,7% năm 2023; UN và AMRO đều nhận định tăng trưởng năm 2024 của Việt Nam đạt 6,0%, cao hơn mức dự báo 4,7% và 5,1% của năm 2023 mà hai tổ chức này đưa ra.
Theo Trading Economics, dự báo tăng trưởng Quý I/2024 của Việt Nam so với cùng kỳ năm trước đạt 4,9%.
Hình 7. Ước tính tăng trưởng của Việt Nam năm 2023 và dự báo tăng trưởng năm 2024
theo một số tổ chức quốc tế
Nguồn: WB, UN và AMRO
Nguồn: Vụ Thống kê nước ngoài và Hợp tác quốc tế - TCTK