Trong hơn 13 năm với cương vị lãnh đạo cao nhất của Đảng ta, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã kiên định đường lối đổi mới và đường lối độc lập tự chủ của Đảng, đứng mũi chịu sào cùng với toàn Đảng lãnh đạo đất nước vượt qua nhiều gian nan thách thức, đạt được những thành tựu ấn tượng trên tất cả các lĩnh vực, tạo tiếng vang trên trường quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế.
Nhiều nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội mang tầm nhìn chiến lược với tư duy đột phá
Dấu ấn lãnh đạo kinh tế của Đảng và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong hơn một thập kỷ qua được thể hiện rõ nét thông qua các cương lĩnh, chiến lược và văn kiện chính thức của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, XII và XIII của Đảng, cùng hàng loạt nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị mang tầm nhìn chiến lược với quan điểm rất mới cùng tư duy đột phá, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội nhanh, mạnh, được cộng đồng quốc tế ghi nhận.
Kế thừa con đường lựa chọn của thế hệ đi trước, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục quan điểm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đây là chủ trương đúng đắn của Đảng về phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, là con đường chúng ta hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Để xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ, ngay trong nhiệm kỳ đầu đảm nhiệm cương vị Người lãnh đạo cao nhất của Đảng, ngày 9/12/2011, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thay mặt Bộ Chính trị ký ban hành nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XI về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Dấu ấn lãnh đạo kinh tế của Đảng và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong hơn một thập kỷ qua được thể hiện rõ nét
thông qua các cương lĩnh, chiến lược và văn kiện chính thức của Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, cùng hàng loạt
nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội mang tầm nhìn chiến lược với quan điểm rất mới cùng tư duy đột phá
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết này được xem là bước đột phá trong tư duy, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân giải phóng nguồn lực, phát triển lành mạnh, hiệu quả, thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế.
Ngày 22/3/2018, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thay mặt Bộ Chính trị ký ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đây là một văn bản pháp lý quan trọng đã góp phần đẩy nhanh phát triển ngành công nghiệp nước ta theo hướng hiện đại gắn với nền kinh tế tri thức, bảo vệ môi trường; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Năm 2019, lần đầu tiên sau 30 năm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 50-NQ/TW về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Nghị quyết 50-NQ/TW phản ánh sự thay đổi chiến lược, chuyển sang giai đoạn thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí thu hút vốn. Nghị quyết đã mở ra một kỷ nguyên mới trong thu hút vốn FDI, góp phần nâng cao chất lượng dòng vốn FDI vào Việt Nam, được các nhà đầu tư trong và ngoài nước đánh giá rất cao.
Cũng trong hơn một thập kỷ qua, dưới sự chỉ đạo của Ban chấp hành trung ương Đảng, trực tiếp và thường xuyên của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Đảng ta lãnh đạo đất nước thực hiện ba đột phá chiến lược (hoàn thiện đồng bộ thể chế; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng). Đây là điểm mới trong tư duy phát triển kinh tế của Đảng, tập trung mọi nguồn lực hiệu quả, để tạo ra sự chuyển biến, bứt phá mạnh mẽ, phát triển đất nước nhanh gắn liền với phát triển bền vững.
Có thể nói, các Nghị quyết của Đảng cùng các quyết sách về phát triển kinh tế được ban hành kịp thời, phù hợp với từng thời điểm quan trọng của đất nước đã tạo nên hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách ngày càng hoàn thiện, phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Từ đó, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, trên nền tảng đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, chất lượng nguồn nhân lực, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ và chủ động hội nhập quốc tế. Điểm mới nổi bật, rất quan trọng trong quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội của Đảng trong hơn thập kỷ qua đó là kiên trì xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao, luôn chủ động thích ứng với những thay đổi của tình hình trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Người chèo lái con thuyền kinh tế Việt Nam vươn ra biển lớn
Với quan điểm xuyên suốt “Định hướng xã hội chủ nghĩa chủ yếu thực hiện bằng công cụ thị trường cùng chính sách an sinh xã hội, không phải là sự can thiệp phi thị trường vào sự vận hành của nền kinh tế” của Đảng dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong gần ba nhiệm kỳ qua, Việt Nam kiên định, vững tin với định hướng phát triển kinh tế thị trường và hiện có 72 nước công nhận nước ta có nền kinh tế thị trường, trong đó có tất cả các nước ASEAN và những nền kinh tế thị trường lớn như Nhật Bản, Anh, Canada, Úc…
Tại Đại hội XIII của Đảng diễn ra vào đầu năm 2021, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định "Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay". Lời nói đó được minh chứng bởi nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực mà đất nước ta đã đạt được, cụ thể hóa bằng kết quả thực hiện Chiến lược kinh tế - xã hội 10 năm (2011-2020) đề ra tại Đại hội XI của Đảng và nhiều điểm sáng trong bức tranh kinh tế - xã hội cả nước những năm gần đây.
Lời nói của Tổng Bí thư được minh chứng bởi nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện
trên hầu hết các lĩnh vực mà đất nước ta đã đạt được
Với chủ trương thực hiện ba đột phá chiến lược (thể chế, nguồn nhân lực và hạ tầng), kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát luôn được kiểm soát ở mức thấp; các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm; nợ công giảm, nợ xấu được kiểm soát. Đặc biệt, trong những năm gần đây, kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn, thách thức do đại dịch Covid-19 bùng phát, diễn biến nhanh, phức tạp của tình hình thế giới và xung đột chính trị giữa một số quốc gia, nhưng kinh tế vĩ mô của nước ta vẫn cơ bản ổn định và là điểm sáng về kinh tế trong khu vực và trên thế giới.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong 5 năm 2011-2015, bình quân mỗi năm tổng sản phẩm trong nước tăng 5,91%, đưa quy mô nền kinh tế nước ta năm 2015 gấp 1,33 lần năm 2010, đưa Việt Nam đứng vào hàng các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao của khu vực và thế giới, cao hơn mức tăng bình quân mỗi năm 3,44% của kinh tế toàn thế giới, trong đó Thái Lan chỉ tăng 2,50%/năm; Hàn Quốc tăng 3,04%/năm; Xin-ga-po tăng 4,24%/năm; Ma-lai-xi-a tăng 5,40%/năm; In-đô-nê-xi-a tăng 5,70%/năm.
Trong các năm 2016-2019, tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức khá với tốc độ tăng GDP đạt 6,78%, cao hơn 0,87 điểm phần trăm so với mức tăng bình quân 5,91%/năm của giai đoạn 2011-2015. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế ấn tượng của thời kỳ 2016-2019, Việt Nam là một trong 10 quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới. Riêng năm 2020, trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới, tăng trưởng kinh tế nước ta chỉ đạt 2,91%. Tuy là mức tăng thấp nhất của các năm trong giai đoạn 2011-2020 nhưng đây là thành công lớn của Việt Nam với mức tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất thế giới. Với tốc độ tăng GDP bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 5,99%/năm, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được xếp vào hàng cao nhất so với các nước trong khu vực ASEAN.
Vượt qua những khó khăn do đại dịch Covid-19 bùng phát trong các năm 2020-2021, năm 2022 nền kinh tế Việt Nam hồi phục trở lại và tăng trưởng ấn tượng 8,02%, đạt mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2011-2022. GDP năm 2023 ước tính chỉ tăng 5,05%, song đây được đánh giá là mức tăng đáng ghi nhận trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn, thách thức, hầu hết các nền kinh tế trên thế giới đều có mức tăng trưởng thấp hơn kỳ vọng; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, toàn diện hơn, gia tăng căng thẳng địa chính trị.
Quy mô nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người ngày càng tăng lên. Năm 2015 GDP toàn nền kinh tế đạt khoảng 204 tỷ USD, GDP bình quân đầu người là 2.109 USD/người. Đến năm 2020, quy mô nền kinh tế tăng lên đạt 271,2 tỉ USD và thu nhập bình quân đầu người đạt 3.552 USD/người (gấp 1,68 lần mức GDP bình quân đầu người năm 2015). Năm 2023, dù nền kinh tế phải nỗ lực phục hồi sau những khó khăn của dịch bệnh Covid-19, song quy mô GDP của nền kinh tế đạt khá ấn tương, ước đạt khoảng 430 tỉ USD, đưa nền kinh tế Việt Nam đứng thứ 35 trong top 40 nước có quy mô kinh tế hàng đầu thế giới và là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới; GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.282 USD/người. Theo Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Thị Hương, trong 10 năm qua quy mô nền kinh tế đất nước phát triển mạnh mẽ, Việt Nam đã nằm trong nhóm 20 nền kinh tế tăng trưởng cao nhất thế giới.
Xét GDP bình quân đầu người tính theo sức mua tương đương (GDP bình quân - PPP), GDP bình quân (PPP) của Việt Nam có sự bứt phá ngoạn mục. Đơn cử, năm 2010 và 2011, GDP bình quân (PPP) của Việt Nam chỉ bằng 80,75% và 83,14% của Philippines; đến năm 2023, GDP bình quân (PPP) của Philippines chỉ bằng 79,06% của Việt Nam. Cụ thể, GDP bình quân (PPP) của Việt Nam đạt khoảng 14.342,3 USD, còn Philippines đạt khoảng 11.339 USD.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo xu hướng tích cực, giảm tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản; tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP đã giảm từ 16,26% năm 2011, xuống còn 12,66% năm 2020 và là 11,96% năm 2023, song ngành nông nghiệp có bước chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng và hiệu quả và vẫn thể hiện là trụ đỡ của nền kinh tế.
Ngược lại, tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng từ 34,58% năm 2011 lên 36,74% năm 2020 và 37,12% năm 2023; trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo phát triển nhanh và luôn là điểm sáng của nền kinh tế, trong khi công nghiệp hỗ trợ có bước phát triển, góp phần nâng cao tỉ lệ nội địa hoá và giá trị gia tăng của sản phẩm. Tương tự, tỷ trọng khu vực dịch vụ tăng từ 38,91% năm 2011 lên 41,83% năm 2020 và 42,54% năm 2023.
Bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế dần dịch chuyển sang chiều sâu, thể hiện ở mức đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng của nền kinh tế tăng lên. Trong giai đoạn 2016 - 2020, đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế đạt bình quân 45,42%, cao hơn nhiều so với mức bình quân 32,84% của giai đoạn 2011-2015. Cùng với đó, chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (Hệ số ICOR) giảm từ 6,42 năm 2016 xuống 6,08 năm 2019. Bình quân giai đoạn 2016-2019, hệ số ICOR đạt 6,13, thấp hơn so với hệ số 6,25 của giai đoạn 2011-2015. Riêng năm 2020, do bị ảnh hưởng tiêu cực nặng nề từ dịch Covid-19 nên hoạt động sản xuất kinh doanh bị đình trệ, các dự án công trình hoàn thành đưa vào sử dụng chưa phát huy năng lực tốt như nền kinh tế ở trạng thái bình thường nên hệ số ICOR đạt 14,28, tính chung cả giai đoạn 2016-2020 hệ số ICOR đạt 7,04.
Chất lượng tăng trưởng nền kinh tế được cải thiện còn thể hiện qua năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai đoạn 2011 - 2015 lên khoảng 6%/năm giai đoạn 2016 – 2020. Theo giá hiện hành, nếu như năm 2010 năng suất lao động của toàn nền kinh tế chỉ là 44 triệu đồng/lao động thì đến năm 2015 là 79,4 triệu đồng/lao động; 150,1 triệu đồng/lao động năm 2020 (gấp 3,4 lần năm 2010). Năm 2023, năng suất lao động của toàn nền kinh tế tiếp tục tăng và tính theo giá hiện hành ước đạt 199,3 triệu đồng/lao động. Năng suất lao động của nền kinh tế tăng chủ yếu do trình độ của người lao động được cải thiện. Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2010 chỉ là 14,7%, đã tăng lên 20,4% năm 2015, 24,1% năm 2020 và sơ bộ năm 2023 là 27,2%.
Thêm một điểm sáng kinh tế trong hơn một thập kỷ qua là Việt Nam kiềm chế và từng bước kiểm soát được lạm phát. Trong giai đoạn 2006-2010, lạm phát hàng năm đều ở mức 2 con số. Đặc biệt, năm 2011 - năm đầu tiên của thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, lạm phát nước ta ở mức rất cao 18,13%. Tuy nhiên, với sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng sự điều hành hiệu quả của Chính phủ triển khai quyết liệt chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, trong 5 năm 2011-2015, Việt Nam đã thành công trong kiềm chế lạm phát, đưa mức lạm phát giảm dần xuống mức 1 con số. Năm 2015, mức lạm phát của Việt Nam thấp kỷ lục 0,60%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu kế hoạch đề ra là tăng 5-7% trong năm 2015. Giai đoạn 2011-2015, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân tăng 7,65%/năm.
Kết quả giai đoạn 2011-2015 đã tạo cơ sở để Việt Nam tiếp tục kiểm soát tốt lạm phát trong 5 năm tiếp theo, giai đoạn 2016-2020, với mức lạm phát luôn ở mức thấp hơn mục tiêu Quốc hội thông qua hằng năm, thể hiện rõ nét việc đổi mới tư duy trong lựa chọn mục tiêu ưu tiên tăng trưởng và phát triển kinh tế của Đảng và Chính phủ. Bình quân năm giai đoạn 2016-2020 CPI tăng 3,15%, thấp hơn mức tăng 7,65%/năm của giai đoạn 2011-2015.
Cũng trong hơn một thập kỷ qua, sự lãnh đạo tài ba của Đảng, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tạo sức sống mới cho kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ hơn, thể hiện qua số doanh nghiệp thành lập mới thời kỳ kế hoạch 5 năm sau cao hơn 5 năm trước. Số doanh nghiệp thành lập mới bình quân trong giai đoạn 2016-2020 trên phạm vi cả nước đạt 128,3 nghìn doanh nghiệp, tăng 62,8% so với bình quân giai đoạn 2011-2015. Bình quân giai đoạn 2016-2019, số doanh nghiệp thành lập mới tăng 9,9%/năm. Đặc biệt, từ năm 2020, hàng loạt các quyết sách đúng đắn, kịp thời đã giúp cộng đồng doanh nghiệp trong nước vững tin, từng bước phục hồi sức khỏe sau dịch Covid-19. Năm 2023, số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới lần đầu tiên chạm mức kỷ lục, gần 160 nghìn doanh nghiệp. Con số này thực sự ấn tượng khi gấp 1,2 lần mức bình quân giai đoạn 2017-2022.
Với việc tăng cường củng cố vị thế và uy tín quốc tế của mình, Việt Nam hội nhập ngày càng sâu, rộng vào kinh tế thế giới. Tính đến nay, Việt Nam đã thiết lập đối tác toàn diện với 12 quốc gia; đối tác chiến lược với 18 quốc gia, trong đó có 7 quốc gia là Đối tác Chiến lược toàn diện. Điều đáng nói là 6/7 đối tác chiến lược toàn diện được thiết lập trong thời kỳ đồng chí Nguyễn Phú Trọng làm Tổng bí thư.
Đến nay, Việt Nam đã thiết lập đối tác toàn diện với 12 quốc gia; đối tác chiến lược với 18 quốc gia,
trong đó có 7 quốc gia là Đối tác Chiến lược toàn diện
Việt Nam cũng là thành viên của nhiều hiệp định thương mại đa phương và song phương quan trọng có quy mô, tầm vóc lớn và mạnh, tạo cơ sở và nền tảng vững chắc về mặt pháp lý cho Việt Nam hội nhập sâu, rộng vào kinh tế thế giới và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Tính đến tháng 5/2024, Việt Nam đã ký kết, thực thi và đang đàm phán tổng cộng là 19 Hiệp định thương mại tự do (FTA) . Trong đó, 16 FTA đã ký kết và đang có hiệu lực. Trong số 16 hiệp định FTA có một nửa số FTA và 5 FTA thế hệ mới được ký trong thời kỳ đồng chí Nguyễn Phú Trọng làm Tổng bí thư.
Những FTA, đặc biệt là FTA thế hệ mới với những cam kết hội nhập rất cao không những thúc đẩy mạnh mẽ tự do thương mại, khơi thông nhiều thị trường tiềm năng trên cơ sở thúc đẩy quan hệ với các đối tác chiến lược kinh tế quan trọng, mà còn giúp Việt Nam hoàn thiện hệ thống luật pháp tương thích với cơ chế thị trường, nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện thể chế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, tạo động lực mạnh mẽ để nước ta thực hiện thành công chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu.
Hiệu quả các FTA mang lại được chứng minh bằng quy mô thương mại nước ta ngày càng lớn; tăng trưởng xuất, nhập khẩu hàng hóa duy trì ở mức cao bất chấp kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn và ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hoá tăng mạnh, từ 327,8 tỉ USD năm 2015 lên khoảng 517,96 tỉ USD năm 2019; riêng năm 2020 mặc dù ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 vẫn đạt khá, ước tính đạt 545,42 tỉ USD. Bình quân giai đoạn 2016-2020, kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước tính đạt 464,8 tỷ USD/năm, tốc độ tăng bình quân giai đoạn này ước đạt 10,7%/năm. Trong đó, xuất khẩu hàng hoá tăng từ 162 tỉ USD năm 2015 lên 282,63 tỉ USD năm 2020, bình quân giai đoạn 2016-2020 tăng 11,8%/năm; nhập khẩu hàng hóa tăng từ 165,8 tỷ USD năm 2015 lên 262,8 tỷ USD năm 2020, bình quân giai đoạn này tăng 9,6%/năm. Cán cân thương mại hàng hóa giai đoạn 2016-2020 liên tục xuất siêu từ 1,6 tỷ USD năm 2016 lên đến gần 20 tỷ USD năm 2020. Đây là thành tích nổi bật trong hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa Việt Nam giai đoạn này, góp phần ổn định các chỉ số kinh tế vĩ mô khác.
Năm 2021, vượt qua chặng đường “gập ghềnh” bởi dịch Covid-19, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa cả năm về đích ngoạn mục với con số kỷ lục 669,1 tỷ USD và vẫn duy trì thế xuất siêu 3,2 tỷ USD. Tạo đà để Việt Nam tiếp tục chinh phục những đỉnh cao mới trong năm tiếp theo 2022 với tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu là 731,5 tỷ USD. Năm 2023, dù chịu tác động song tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu nước ta không như kỳ vọng những vẫn đạt con số ấn tượng 681,1 tỷ USD, tiếp nối đà xuất siêu liên tiếp kể từ năm 2016 đến nay và đặc biệt đã ghi dấu ấn xuất siêu kỷ lục 28,3 tỷ USD, tạo cú sốc bất ngờ với không ít chuyên gia kinh tế. Đây là thời kỳ xuất siêu dài nhất trong nhiều năm qua của nước ta. Điều đáng nói là nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam giữ vị trí top đầu thế giới. Điển hình là Việt Nam hiện đang giữ vững vị trí số 1 thế giới 16 năm liền về xuất khẩu điều nhân khi chiếm tới gần 80% tổng sản lượng toàn cầu. Bên cạnh đó, Việt Nam nằm trong top đầu thế giới về xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như: Gạo, cao su, giày dép…
Với độ mở nền kinh tế cao cùng môi trường chính trị, kinh tế vĩ mô ổn định, các chính sách thông thoáng, Việt Nam luôn là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí cả trong bối cảnh đầu tư toàn cầu suy giảm, nhiều nước lớn có động thái hạn chế đầu tư ra nước ngoài, nhiều tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới định hình lại cơ cấu đầu tư.
Nhìn lại giai đoạn 2016-2020, tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài có xu hướng tích cực so với giai đoạn 2011-2015, với 15.139 dự án đầu tư được cấp phép với tổng số vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 170,4 tỷ USD. Đáng chú ý, năm 2020, khi dòng vốn FDI toàn cầu giảm 35% xuống còn 1.000 tỷ USD, thì Việt Nam tiếp tục là điểm sáng trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký mới đạt khoảng 16 tỷ USD, đánh dấu lần đầu tiên nước ta lọt vào tốp 20 nước dẫn đầu thế giới về thu hút FDI.
Năm 2021, trước làn sóng dịch Covid-19, niềm tin của nhà đầu tư nước ngoại suy giảm cùng những bất ổn chính trị trên thế giới, tưởng chừng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài “gục ngã”, song với các quyết sách kịp thời của Chính phủ Việt Nam từ sự lãnh đạo của Đảng đã làm vững lòng các doanh nghiệp FDI, giữ được niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài, vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài vẫn tăng ngoạn mục, vượt mốc 31 tỷ USD và chỉnh phục đỉnh mới 36,61 tỷ USD năm 2023. Cùng với đó, vốn thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài năm 2023 đạt khoảng 23,18 tỷ USD, cao nhất trong 5 năm qua. Điều đáng nói là số các dự án FDI hàm lượng công nghệ cao có xu hướng ngày càng tăng và Việt Nam đang trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Kết quả trên cho thấy sức hút mạnh mẽ của Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài, dưới sự lãnh đạo kiệt xuất của Đảng, trực tiếp là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Việt Nam được xem là câu chuyện thành công của thế giới khi tăng trưởng kinh tế luôn nằm trong top đầu suốt thập kỷ vừa qua. Những thành tựu kinh tế nổi bật trên là nỗ lực tổng hòa chung của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương, của Chính phủ và cả hệ thống chính trị trong nhiều nhiệm kỳ, cũng là sự kế thừa tiếp nối những thành tựu của gần 40 năm Đổi mới đất nước, trong đó có vai trò quan trọng của người đứng đầu Đảng ta là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong hơn 13 năm qua.
Di sản Tổng Bí thư từ góc nhìn báo chí quốc tế
Với sự lãnh đạo tài tình, kiệt xuất của mình thể hiện qua những thành tựu quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã được nhiều tờ báo quốc tế tôn vinh. Tờ Washington Post nhấn mạnh, “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã dẫn dắt Việt Nam vào một thời kỳ mở cửa kinh tế mạnh mẽ hơn” và Ông cũng mạnh tay hơn trong công cuộc chống tham nhũng, qua đó khơi dậy niềm tin của công chúng vào sự lãnh đạo của Đảng đối với nền kinh tế Việt Nam - Một trong những nền kinh tế năng động nhất trong khu vực, với các lĩnh vực khởi nghiệp đang phát triển.
Còn báo Nikkei Asia đánh giá “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đưa Việt Nam đạt mức tăng trưởng cao nhờ tham gia các hiệp định thương mại tự do và các biện pháp khác”.
Trong khi đó, báo New York Times nhận xét “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là một nhà lãnh đạo liêm khiết, giản dị. Dưới sự lãnh đạo của ông, Việt Nam đã nâng cao uy tín trên trường quốc tế và là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất châu Á”. Báo New York Times cũng đánh giá cao những thành tựu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Ông Nguyễn Phú Trọng đã lãnh đạo một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất châu Á và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong nhiệm kỳ của ông, các siêu cường lớn trên thế giới đã tích cực xây dựng mối quan hệ với quốc gia Đông Nam Á này”.
Nêu bật dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, báo chí Nhật Bản cho rằng, “Thành tựu nổi bật nhất của Việt Nam trong thời gian lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là kinh tế tăng trưởng cao, nâng cao vị thế trên trường quốc tế và chính sách “ngoại giao toàn diện, đa hướng và cân bằng” trong bối cảnh thế giới phân cực”.
Dưới góc độ kinh tế, tờ Financial Times nhận định Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “đóng vai trò trung tâm trong sự phát triển kinh tế của Việt Nam”./.
Tài liệu tham khảo:
- Động thái và thực trạng kinh tế - xã hội Việt Nam 5 năm 2011-2015, Tổng cục Thống kê;
- Niên giám Thống kê các năm 2018-2023, Tổng cục Thống kê.
Bích Ngọc