Trẻ em là nguồn hạnh phúc của gia đình, là tương lai của dân tộc, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Chính vì vậy, trẻ em luôn là đối tượng được nhà nước quan tâm, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục nhằm giúp các em phát triển toàn diện cả về thể chất, tinh thần, trí tuệ và đạo đức để góp phần bổ sung nguồn nhân lực có chất lượng cho đất nước.
Nhằm thu thập thông tin cho chỉ tiêu thống kê và đồng thời cập nhật thông tin về thực trạng trẻ em tham gia lao động và lao động trẻ em phục vụ cho việc xây dựng các chính sách phòng ngừa và giảm thiểu lao động trẻ em, Tổng cục Thống kê, với sự đồng hành của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (Cục trẻ em) và Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), đã nghiên cứu lồng ghép thu thập một số nội dung thông tin về tình hình tham gia lao động của trẻ em từ 5 đến 17 tuối và lao động trẻ em vào cuộc Điều tra lao động việc làm năm 2023. Sau đây là một số phát hiện chính từ kết quả điều tra:
Dân số trẻ em từ 5 đến 17 tuổi
Năm 2023, dân số trẻ em từ 5 đến 17 tuổi của Việt Nam là 20,6 triệu người, chiếm 20,6% tổng dân số toàn quốc. Trong đó, trẻ em nhóm 5-11 tuổi là 11,8 triệu người, chiếm 57,2%; trẻ em nhóm tuổi 12-14 và 15-17 lần lượt là 4,7 triệu người và 4,1 triệu người, chiếm 22,9% và 19,9%. Trẻ em sống ở khu vực thành thị chiếm 35,0%, ở khu vực nông thôn chiếm 65,0%.
Số liệu từ điều tra lao động việc làm năm 2023 cho thấy, hoạt động quan trọng hàng đầu của trẻ em là “đi học”. Trong tổng số 20,6 triệu trẻ em 5-17 tuổi, có 19,9 triệu trẻ “đang đi học”, chiếm 96,4%, trong đó có 94,8% trẻ em “chỉ đi học” và chỉ có 1,6% trẻ em phải “vừa học vừa làm”. Tỷ lệ trẻ em đang đi học ở khu vực thành thị cao hơn đôi chút so với ở khu vực nông thôn, 97,5% so với 95,8%. Không có sự phân biệt đối xử với trẻ em gái trong cơ hội được đi học khi tỷ lệ trẻ em gái đi học cao hơn tỷ lệ này ở trẻ em trai 0,8 điểm phần trăm, 96,8% so với 96,0%.
Trẻ em tham gia lao động
Toàn quốc có 731,6 nghìn trẻ em tham gia lao động. Đa phần trẻ em tham gia lao động đang cư trú ở khu vực nông thôn (84,6%) và tập trung chủ yếu ở vùng Trung du miền núi phía Bắc và vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (52,7%). Số trẻ em tham gia lao động ở 4 vùng còn lại chỉ chiếm 47,3%.
Tỷ lệ trẻ em tham gia lao động là 3,5%, điều này có nghĩa là trong 100 trẻ em từ 5 đến 17 tuổi thì có gần 4 em tham gia lao động, tỷ lệ này giảm 5,6 điểm phần trăm so với năm 2018 khi tỉ lệ trẻ em tham gia lao động là 9,1%. Những thành tựu đáng ghi nhận về tốc độ tăng trưởng kinh tế, việc làm, tỷ lệ đi học của trẻ em 5 đến 17 tuổi, giảm đói nghèo của Việt Nam trong những năm qua đã góp phần làm giảm tỷ lệ trẻ em tham gia lao động.
Trong 6 vùng kinh tế xã hội thì Trung du miền núi phía Bắc là vùng có tỷ lệ trẻ em tham gia lao động cao nhất cả nước. Ở vùng này, cứ 100 trẻ em thì có khoảng hơn 7 trẻ tham gia lao động. Tiếp theo là Vùng Tây Nguyên với 6,4% trẻ tham gia lao động. Con số này ở vùng Đồng bằng sông Hồng là thấp nhất, chưa đến 1%. Hơn hai phần ba (70,6%) trẻ tham gia lao động thuộc nhóm từ 15-17 tuổi. Số trẻ trong độ tuổi 12 đến 14 chiếm tỷ trọng 23,8% tổng số trẻ tham gia lao động. Con số này ở trẻ em từ 5 đến 11 tuổi là 5,6%.
Trẻ em tham gia lao động thường bị hạn chế cơ hội được đi học, đa phần trẻ em tham gia lao động hiện không đi học, trên phạm vi cả nước có 403,2 nghìn trẻ em tham gia lao động không đi học (55,1%). Ở chiều ngược lại, đối với nhóm trẻ không tham gia lao động thì hầu hết trẻ em là đang đi học (98,3%), tỷ trọng trẻ em không đi học ở nhóm này chỉ chiếm 1,7%. Điều này cho thấy nếu trẻ em có cơ hội học tập nhiều hơn thì càng ít khả năng tham gia lao động và sẽ ít có khả năng trở thành lao động trẻ em.
Có rất nhiều nguyên nhân khiến các em không đi học và phải tham gia lao động. Đáng lưu ý là nguyên nhân phổ biến nhất không phải xuất phát từ các vấn đề kinh tế hoặc các áp lực từ phía gia đình mà chủ yếu là do các em “không thích đi học/học kém”, chiếm 59,9%.
Hai phần ba trẻ em tham gia lao động cả nước đang làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 67,0%, trong đó có 74,1% trẻ em tham gia lao động trong khu vực này sống ở nông thôn. Trẻ em làm trong ngành dịch vụ chiếm 16,4%; 13,3% trẻ em làm việc trong ngành công nghiệp và chỉ có 3,2% trên tổng số trẻ em tham gia lao động trong ngành xây dựng.
Độ tuổi phổ biến trẻ bắt đầu tham gia lao động là từ 10 tuổi trở lên, trong đó độ tuổi các em bắt đầu tham gia nhiều nhất là tuổi 15 với khoảng 148,7 nghìn trẻ, chiếm tỷ trọng 20,5%. Số lượng trẻ em bắt đầu tham gia lao động ở lứa tuổi nhỏ (từ 5-7 tuổi) chiếm tỷ trọng nhỏ, chỉ 1,8%, nhưng cũng rất đáng quan tâm vì lứa tuổi này quá nhỏ và việc tham gia lao động có thể ảnh hưởng không tốt đến cơ hội học tập và khả năng phát triển toàn diện của các em.
Lao động trẻ em
Cả nước có 269.604 lao động trẻ em, chiếm 1,31% tổng số trẻ em 5-17 tuổi, và chiếm 36,9% trẻ em tham gia lao động, điều này có nghĩa là trong 100 trẻ từ 5 đến 17 tuổi tham gia lao động có tới 37 trẻ là lao động trẻ em.
Đa số lao động trẻ em (76,4%) đang cư trú ở khu vực nông thôn và 61,4% lao động là trẻ em trai. Lao động trẻ em tập trung chủ yếu ở nhóm 15-17 tuổi (65,6%), tiếp theo là nhóm 12-14 tuổi chiếm 28,7% lao động, còn lại 5,7% ở nhóm 5-11 tuổi.
Theo các vùng kinh tế - xã hội, lao động trẻ em tập trung nhiều ở các vùng: Đồng bằng sông Cửu Long (29,2%), Đông Nam Bộ (18,9%), Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (15,5%). Các vùng còn lại tỷ trọng chỉ dưới 15%. Ở những vùng kinh tế kém phát triển, trẻ em được đi học ít hơn thì tỷ lệ lao động trẻ em cao hơn. Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long tỷ lệ đi học của trẻ em thấp nhất cả nước (93,4% và 92,5%), đồng thời tương ứng với tỷ lệ lao động trẻ em của hai vùng này cao nhất cả nước (2,67%; 2,31%); ngược lại ở vùng còn lại, đặc biệt ở vùng Đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ trẻ em đi học cao nhất cả nước (99,1%) thì tỷ lệ lao động trẻ em có việc làm của vùng này thấp nhất cả nước, chỉ có 0,38%.
Ở những vùng kinh tế phát triển thì nguy cơ trẻ em là lao động trẻ em thấp hơn, tuy nhiên khi trẻ trở thành lao động trẻ em thì cơ hội học tập của các em lại thấp hơn. Ở thành thị, tỷ lệ lao động trẻ em đang đi học thấp hơn 7,8 điểm phần trăm so với nông thôn (tương ứng 16,1% và 23,9%), trong khi đó với nhóm không phải lao động trẻ em thì tỷ lệ đi học của trẻ em khu vực thành thị cao hơn 1,2 điểm phần trăm so với khu vực nông thôn (98,2% so với 97,0%). Sự chênh lệch này có thể do sự khác biệt về môi trường làm việc giữa thành thị và nông thôn. Lao động trẻ em ở vùng nông thôn có thể thường tham gia vào công việc theo mùa hoặc công việc bán thời gian trong các hoạt động nông nghiệp của gia đình. Điều này giúp các em vẫn còn cơ hội đi học khi mùa vụ kết thúc, kéo theo tỷ lệ được đi học của lao động trẻ em ở khu vực nông thôn cao hơn khu vực thành thị.
Lao động trẻ em tập trung chủ yếu ở ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản (38,9%), tiếp theo là ngành công nghiệp và xây dựng chiếm đến 38,3%, ngành dịch vụ chiếm 22,8%. Ở độ tuổi càng lớn, trẻ càng có xu hướng chuyển dịch sang làm các công việc trong ngành phi nông nghiệp. Với nhóm tuổi 5-11, 75,7% lao động trẻ em tham gia vào ngành nông lâm nghiệp, thủy sản, số liệu này ở nhóm 12-14 tuổi là 59,9% và ở nhóm 15-17 tuổi giảm còn 26,5 %.
Mặc dù số trẻ em làm việc trong các ngành phi nông lâm nghiệp và thủy sản có quy mô nhỏ hơn rất nhiều so với số trẻ em làm việc trong ngành nông lâm nghiệp và thủy sản nhưng nguy cơ các em làm việc ở các ngành này trở thành lao động trẻ em lại cao hơn. Ở ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản, có 21,4% trẻ em tham gia lao động là lao động trẻ em. Con số này ở ngành dịch vụ là 51,2%; ngành công nghiệp và xây dựng là 85,3%.
Lao động trẻ em chủ yếu tham gia làm nghề giản đơn. Tính chung cả nước, cứ 100 lao động trẻ em có khoảng 56 em tham gia các công việc giản đơn, khoảng 12 em tham gia công việc dịch vụ cá nhân, bảo vệ hoặc bán hàng, 14 trẻ em tham gia công việc thuộc Nhóm Thợ lắp ráp và vận hành máy móc thiết bị và khoảng hơn 12 trẻ làm trong nhóm thợ thủ công và các thợ khác có liên quan.
Bình quân, mỗi lao động trẻ em phải làm việc 37,5 giờ/tuần. Tuổi càng cao thì số giờ làm việc bình quân của các em càng tăng lên. Các em từ 5 đến 11 tuổi có số giờ làm việc bình quân là 17,1 giờ/tuần. Con số này ở các em từ 12-14 tuổi và từ 15-17 tuổi lần lượt là 30,6 giờ/tuần và 43,7 giờ/tuần.
Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ mặc dù có tỷ lệ lao động trẻ em thấp hơn so với các vùng khác nhưng lao động trẻ em lại có số giờ làm việc bình quân cao nhất (tương ứng 42,0 giờ/tuần và 41,7 giờ/ tuần), trong khi số giờ làm việc bình quân của lao động trẻ em vùng Trung du miền núi phía Bắc, vùng Bắc Trung Bộ và Duyên Hải miền Trung thấp hơn đáng kể (tương ứng 31,8 giờ/tuần và 34,7 giờ/tuần). Điều này cho thấy ở vùng nào có tỷ trọng lao động trẻ em làm trong ngành phi nông nghiệp cao thì thời giờ làm việc cũng cao hơn.
Trong tổng số 269.604 lao động trẻ em từ 5 đến 17 tuổi có 177.840 em phải làm nhiều số giờ hơn quy định (chiếm 65,9% tổng số lao động trẻ em). Phần lớn trong số này là trẻ em ở khu vực nông thôn (75,0%) và trẻ em trai (61,6%).
Lao động trẻ em chủ yếu tham gia làm việc vào ban ngày hoặc những ngày cuối tuần. Tuy nhiên, vẫn còn khoảng 50,1 nghìn trẻ em phải làm việc vào ban đêm (tức là làm việc trong khoảng thời gian từ 22 giờ đêm đến 06 sáng hôm sau), chiếm 18,6% tổng số lao động trẻ em). Việc trẻ em phải làm đêm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, an toàn và cơ hội phát triển đầy đủ của các em do đó cần phải xóa bỏ hình thức lao động trẻ em này.
Cả nước có gần 94,3 nghìn trẻ em (chiếm 35,0% tổng số lao động trẻ em) phải làm các công việc có thể gây nguy hại cho chính bản thân các em. Lao động trẻ em ở khu vực thành thị có nguy cơ phải làm công việc loại này cao hơn gấp 1,5 lần so với ở khu vực nông thôn, tương ứng là 47,9% và 31,9%.
Tổng số có khoảng 32,6 nghìn trẻ em gặp phải ít nhất 1 vấn đề về sức khỏe do công việc, chiếm 12,1% lao động trẻ em. Như vậy cứ 100 lao động trẻ em có khoảng 12 trẻ em gặp vấn đề về sức khỏe, cao hơn ở nhóm trẻ tham gia lao động nói chung (12,1% so với 10,2%). Tỷ lệ trẻ em nam gặp phải vấn đề về sức khỏe cao hơn so với trẻ em nữ (13,5% so với 9,9%) và ở khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn (14,1% so với 11,5%).
Mức thu nhập bình quân chung của lao động trẻ em là khoảng 3,0 triệu đồng/người/tháng, chưa bằng một phần hai mức thu nhập bình quân của những người lao động từ 15 tuổi trở lên (7,1 triệu đồng/người/ tháng). Điều này cho thấy thu nhập bình quân mà lao động trẻ em tạo ra là thấp, trong khi đó việc đi làm đã khiến các em mất đi cơ hội học tập và chuẩn bị các kiến thức tốt hơn cho tương lai. Không những thế, các công việc mà các em đang làm cũng ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe và sự phát triển của chính các em. Do đó việc tiến tới xóa bỏ lao động trẻ em là điều cần thiết, rất quan trọng và cần sự có sự quan tâm từ những nhà quản lý.
Kết luận và Kiến nghị
Mặc dù hệ thống pháp luật chính sách về lao động trẻ em ở Việt Nam được xây dựng khá đầy đủ và ngày càng thoàn thiện nhưng tình trạng lao động trẻ em vẫn còn tồn tại. Vì vậy cần nghiên cứu rà soát các quy định hiện hành trên cơ sở xem xét thực trạng và đặc điểm lao động trẻ em và những vướng mắc trong công tác quản lý, phòng ngừa lao động trẻ em để kịp thời đề xuất và hoàn thiện chính sách pháp luật đảm bảo phù hợp với khuyến nghị quốc tế và theo kịp với tình hình thực tiễn của Việt Nam.
Cần tăng cường các biện pháp kiểm tra giám sát để đảm bảo việc tuân thủ quy định không sử dụng lao động trẻ em, đặc biệt trong khu vực phi chinh thức, hộ gia đình và khu vực nông nghiệp.
Áp dụng các biện pháp chế tài nghiêm khắc đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật trong sử dụng lao động trẻ em, đặc biệt đối với trẻ em dưới 13 tuổi, nhằm bảo vệ quyền lợi cho trẻ em và đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
Tiếp tục nâng cao nhận thức cộng đồng thông qua việc tuyên truyền về tác hại của lao động trẻ em, truyền thông các chính sách pháp luật và các chế tài đối với hành vi sử dụng lao động trẻ em. Khuyến khích sự cam kết và tham gia của cộng đồng trong việc giám sát và báo cáo các trường hợp lao động trẻ em.
Trẻ em không đến trường có nguy cơ cao trở thành lao động trẻ em. Vì vậy, cần nghiên cứu các chính sách cũng như các chương trình đào tạo, giáo dục nghề nghiệp phù hợp hơn, giúp phát huy năng lực và sở trường của các em nhằm khuyến khích, tạo cơ hội, động lực cho tất cả các em trong độ tuổi đi học đều được đến trường, giảm tỷ lệ bỏ học, không thích đi học, mất hứng thú đến trường, từ đó ngăn ngừa nguy cơ lao động trẻ em.
Có mối quan hệ chặt chẽ giữa các đặc điểm cơ bản của chủ hộ đối với tình trạng lao động trẻ em. Theo đó, chủ hộ có trình độ học vấn càng cao hoặc có việc làm chính thức thì xác suất trẻ em sống trong hộ đó là lao động trẻ em càng giảm. Vì vậy, triển khai các chính sách thúc đẩy chính thức hóa lao động phi chính thức, nâng cao trình độ học vấn của chủ hộ là những giải pháp hiệu quả để ngăn ngừa lao động trẻ em.
Bên cạnh các cuộc điều tra quốc gia như điều tra lao động việc làm, cần nghiên cứu thể triển khai các cuộc khảo sát chuyên sâu, mở rộng mẫu điều tra đại diện đến cấp tỉnh/ thành phố để cung cấp thêm các băng chứng cần thiết làm cơ sở để đánh giá đầy đủ, thực chất và toàn diện về các vấn đề lao động tré em từ đó xây dựng các giái pháp phông ngừa hiệu quả và thiết thực. Đồng thời, cơ quan quản lý nhà nước về lao động cần phối hợp với cơ quan thống kê hoàn thiện, chuẩn hóa các danh mục công việc gây nguy hại hay các danh mục công việc được làm của từng nhóm đối tượng theo danh mục nghề nghiệp Việt Nam để nhiệm vụ thống kê đo lường lao động trẻ em được thuận tiện hơn.
Tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế và tăng cường hợp tác đa phương và song phương để chia sẻ kinh nghiệm, nguồn lực và phương pháp hiệu quả trong việc xóa bỏ lao động trẻ em.
Lao động trẻ em khiến các em mất đi cơ hội học tập và chuẩn bị các kiến thức tốt hơn cho tương lai, không những thế các công việc mà các em đang làm cũng có ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe các em. Do vậy, cần tiếp tục duy trì chương trình phòng ngừa, giảm thiểu tiến tới xóa bỏ lao động trẻ em để đảm bảo quyền lợi trẻ em và sự tiến bộ xã hội.
Xóa bỏ tình trạng lao động trẻ em là một nhiệm vụ đầy thách thức và đòi hỏi sự tham gia tích cực của toàn hệ thống chính trị, của mỗi tổ chức và của từng cá nhân. Sự phối hợp và cam kết mạnh mẽ từ tất cả các bên sẽ góp phần cải thiện và xóa bỏ tình trạng lao động trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em phát triển toàn diện nhất để "không ai bị bỏ lại phía sau".
PV tổng hợp
Nguồn số liệu:
Khái niệm "trẻ em" sử dụng ấn phẩm này bao gồm trẻ em (từ 5 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi) và người chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi) theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Điều tra lao động việc làm là cuộc điều tra mẫu trong chương trình điều tra thống kê quốc gia theo Quyết định số 03/2023/QĐ-TTg ngày 15/02/2023 của Thủ tướng Chính phủ.