Nhằm khẳng định cam kết mạnh mẽ chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU), tiến tới hài hòa quy định quốc tế và phát triển bền vững ngành khai thác thủy sản; đồng thời thể hiện sự chủ động tăng cường hợp tác với EU cũng như nỗ lực và quyết tâm thực hiện các khuyến nghị của Ủy ban Châu Âu (EC), trong những năm qua, Việt Nam đã tích cực giải quyết tốt các nội dung kiến nghị đối với việc đẩy lùi và chấm dứt khai thác IUU và đã đạt được những kết quả nổi bật.
Cả hệ thống chính trị tích cực vào cuộc
Với sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ, hướng đến mục tiêu xây dựng nghề cá bền vững, có trách nhiệm, hội nhập quốc tế và trước mắt là gỡ thẻ vàng của EC, cả hệ thống chính trị đã tích cực vào cuộc để xây dựng và triển khai một kế hoạch đồng bộ với các giải pháp cụ thể trong toàn hệ thống từ Trung ương đến địa phương, cộng đồng ngư dân, hiệp hội và doanh nghiệp thủy sản.
Ở cấp Trung ương, Thường trực Ban Bí thư đã ban hành Văn bản số 81-CV/TW ngày 20/3/2020 về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hiệu quả công tác phòng, chống khai thác IUU và coi đây là nhiệm vụ ưu tiên, cấp bách tại địa phương. Bên cạnh đó, Lãnh đạo cấp cao của Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ có nhiều cuộc tiếp xúc, trao đổi với Lãnh đạo cấp cao của Liên minh Châu Âu về cam kết, nỗ lực, quyết tâm về chống khai thác IUU.
Nhằm đẩy mạnh thực hiện các khuyến nghị của EC, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành nhiều văn bản quan trọng, chủ trì các cuộc họp trực tuyến với các Ban, Bộ, Ngành Trung ương có liên quan và địa phương và chỉ đạo trực tiếp đến cấp xã/phường/thị trấn, huyện/quận/thị xã có biển của 28 tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc Trung ương.
Cùng với đó là sự vào cuộc tích cực của các Bộ, ngành như: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cơ quan thường trực Ban chỉ đạo quốc gia về IUU) ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn và thường xuyên tổ chức các cuộc họp, các đoàn công tác kiểm tra, chỉ đạo, đôn đốc hướng dẫn địa phương thực hiện và chuẩn bị nội dung, kế hoạch tiếp và làm việc với Đoàn Thanh tra của EC lần thứ 4 đảm bảo đạt kết quả tốt nhất; tổ chức Hội nghị triển khai Quyết định số 81/QĐ-TTg về kế hoạch hành động chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định. Bộ Quốc phòng thường xuyên tổ chức các cuộc họp để chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiều giải pháp theo chức năng, nhiệm vụ được giao để cảnh báo, ngăn chặn tàu cá, ngư dân Việt Nam vi phạm khai thác hải sản bất hợp pháp ở vùng biển nước ngoài…
Tại 28 tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc Trung ương đã thành lập, kiện toàn Ban chỉ đạo IUU của tỉnh, ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị, cơ chế, chính sách để nâng cao hiệu quả chống khai thác IUU, như: Hỗ trợ kinh phí cho ngư dân lắp đặt thiết bị giám sát hành trình tàu cá (VMS), bố trí nguồn lực tại cảng cá để kiểm soát sản lượng khai thác thủy sản cập cảng (cả khai thác trong nước và nhập khẩu); tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, kiểm điểm trách nhiệm các tổ chức, cá nhân liên quan chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao, để tàu cá địa phương tiếp tục vi phạm khai thác hải sản bất hợp pháp ở vùng biển nước ngoài theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện số 265/CĐ-TTg…
Thêm vào đó, công tác thông tin truyền thông, tuyên truyền, tập huấn về chống khai thác IUU được đẩy mạnh từ Trung ương đến địa phương với nhiều hình thức đa dạng nhằm tuyên truyền, vận động ngư dân không vi phạm khai thác IUU, trong đó có sự tham gia tích cực của các Hội, Hiệp hội thủy sản, cộng đồng doanh nghiệp, cộng đồng ngư dân.
Những kết quả tích cực
Với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả trong thực hiện các quy định của pháp luật gắn với khuyến nghị của EC để gỡ thẻ vàng.
Về khung pháp lý
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) đã phối hợp chặt chẽ với các Ủy ban của Quốc hội, các cơ quan của Chính phủ để nội luật hóa các quy định của EC về chống khai thác IUU. Trong đó có Luật Thủy sản được Quốc hội thông qua vào tháng 11/2017; Nghị định số 26/2019/NĐ-CP ngày 08/3/2019 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Thủy sản Chính phủ; Nghị định số 42/2019/NĐ-CP ngày 16/5/2019 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thủy sản và nhiều Thông tư hướng dẫn thi hành Luật Thủy sản khác. Đến năm 2019, khung pháp lý cơ bản đã được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu chống khai thác IUU. Hiện nay, Bộ NN&PTNT đang tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp lý để phù hợp thực tiễn nghề cá Việt Nam và quy định quốc tế theo khuyến nghị của EC tại đợt thanh tra lần thứ 3.
Bên cạnh đó, Bộ NN&PTNT xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành các chương trình, đề án, quy hoạch để phát triển ngành thủy sản bền vững, có trách nhiệm, hội nhập quốc tế và chống khai thác IUU cũng như thực hiện có hiệu quả Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 11/3/2021.
Về quản lý đội tàu, theo dõi, kiểm tra, kiểm soát hoạt động tàu cá
Công tác quản lý tàu cá chuyển biến một cách rõ rệt. Cơ sở dữ liệu nghề cá quốc gia (VNFishbase) được xây dựng và vận hành mang lại hiệu quả cao. Thực hiện khuyến nghị của EC về cắt giảm số lượng tàu cá và cường lực khai thác, Bộ NN&PTNT đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các địa phương rà soát lại toàn bộ số lượng tàu cá, cập nhật dữ liệu tàu cá vào VNFishbase và ban hành văn bản chỉ đạo địa phương tạm dừng việc cấp văn bản chấp thuận đóng mới cho tàu cá có chiều dài lớn nhất từ 15 mét trở lên, tạm dừng cấp văn bản chấp thuận cho phép hoán cải tàu cá có chiều dài dưới 15 mét thành tàu có chiều dài từ 15 mét trở lên từ ngày 20/12/2022; tổ chức rà soát và xem xét điều chỉnh giảm số hạn ngạch Giấy phép khai thác thủy sản tại vùng ven bờ và vùng lộng sát thực với số tàu cá hiện có của địa phương phù hợp với quy định của Luật Thủy sản năm 2017.
Theo đó, đã có 26/28 tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc Trung ương thực hiện xong việc rà soát, kiểm kê tàu cá hiện có tại địa phương, xác định hạn ngạch khai thác thủy sản tại vùng biển ven bờ và vùng lộng theo quy định của Điều 49 Luật Thủy sản năm 2017. Kết quả rà soát đến tháng 12/2022, cả nước có 86.820 tàu cá có chiều dài từ 6m trở lên (giảm 9.789 tàu so với năm 2019), trong đó có 30.091 tàu cá có chiều dài từ 15m (giảm 1.206 tàu so với năm 2019).
Công tác quản lý tàu cá chuyển biến một cách rõ rệt
Phần mềm Vnfishbase được cập nhật thường xuyên tại 31 tỉnh, thành phố có tàu tham gia khai thác hải sản, đáp ứng được cơ bản các yêu cầu về nghiệp vụ quản lý khai thác thủy sản. Nhờ đó, công tác quản lý nghề cá thuận tiện và hiệu quả hơn. Hiện trên cơ sở dữ liệu VNFishbase có 73.282 tàu cá có chiều dài từ 6m trở lên (trong đó có 29.489 tàu cá có chiều dài từ 15m trở lên). Có 27.810/29.489 tàu cá từ 15m trở lên đã được cấp phép còn hạn, đạt 94,3%. Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ tiếp tục tập trung tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án chuyển đổi một số nghề khai thác hải sản ảnh hưởng đến nguồn lợi và môi trường sinh thái đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 208/QĐ-TTg và Quy hoạch khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản để phát triển ngành khai thác hải sản bền vững.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin khai thác, sử dụng Hệ thống giám sát tàu cá để giám sát hoạt động của tàu cá trên biển, đến nay, Việt Nam có 28.797/29.489 tàu cá có chiều dài từ 15 mét trở lên (đạt 97,65%) đã lắp đặt thiết bị giám sát hành trình (VMS).
Bên cạnh đó, lực lượng Biên phòng địa phương thường xuyên kiểm tra, kiểm soát điều kiện của tàu cá theo quy định về giấy tờ, trang thiết bị, lao động... Các lực lượng Kiểm ngư, Hải quân, Biên phòng, Cảnh sát biển và thanh tra thủy sản cũng tăng cường tuần tra, kiểm tra, kiểm soát trên các vùng biển, đặc biệt là tại các khu vực vùng biển giáp ranh, chồng lấn, chưa phân định giữa Việt Nam và các nước.
Về chứng nhận sản lượng và truy xuất nguồn gốc thủy sản
Việc thực hiện truy xuất nguồn gốc thủy sản khai thác trong nước được kiểm soát theo chuỗi qua cơ chế xác nhận, chứng nhận nguồn gốc thủy sản. Công tác kiểm soát nguồn gốc nguyên liệu thủy sản khai thác nhập khẩu từ nước ngoài được tăng cường, đảm bảo theo quy định của pháp luật Việt Nam và cơ bản đáp ứng được quy định của Hiệp định biện pháp quốc gia có cảng (PSMA). Theo đó, duy trì việc quản lý, theo dõi việc cấp xác nhận cho các lô hàng thủy sản được chế biến thủy sản khai thác nhập khẩu để xuất khẩu vào EU; đồng thời duy trì hoạt động thẩm tra sau chứng nhận, xác nhận đối với các cơ sở chế biến đảm bảo hoạt động truy xuất trong toàn bộ quá trình sản xuất. Tính đến nay, tất cả các lô hàng thủy sản khai thác được xác nhận cam kết đều được thông quan.
Song song với đó, Việt Nam tăng cường cơ chế phối hợp trong tổ chức đào tạo, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ; siết chặt quản lý, thường xuyên kiểm tra các cơ sở, doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu thủy sản, đặc biệt là nơi có lô hàng bị cảnh báo từ phía EC. Nâng cao năng lực, kỹ năng thẩm định nguồn gốc thủy sản được khai thác ngoài Việt Nam, đặc biệt là nguyên liệu được khai thác tại các vùng thuộc thẩm quyền của các Tổ chức quản lý khu vực, của các Quốc đảo Thái Bình Dương. Đồng thời, thực hiện các quy định của Hiệp định PSMA về công bố cảng chỉ định cho tàu nước ngoài cập cảng và tổ chức kiểm soát theo quy định.
Đối với hàng nhập khẩu bằng công-ten-nơ, tiến hành sửa đổi các quy định kiểm soát theo loài, yêu cầu các dữ liệu đầu vào về nguồn gốc và có cơ chế chia sẻ thông tin giữa các cơ quan chức năng nhằm thiết lập cơ sở dữ liệu phục vụ cho công kiểm soát và hậu kiểm đối với nguồn gốc của các loài có nguồn gốc từ khai thác nhập khẩu vào Việt Nam.
Về thực thi pháp luật và xử lý vi phạm
Các lực lượng thực thi pháp luật trên biển thực hiện ngăn chặn, xử lý tàu cá Việt Nam khai thác hải sản bất hợp pháp ở vùng biển nước ngoài; thường xuyên tuần tra, kiểm tra, kiểm soát tại các vùng biển giáp ranh, chồng lấn, các vùng trọng điểm. Qua đó, số lượng tàu cá Việt Nam vi phạm khai thác hải sản bất hợp pháp ở vùng biển nước ngoài đã giảm dần qua các năm. Chỉ tính từ đầu năm đến ngày 13/9/2023, số tàu cá vi phạm khai thác bất hợp pháp ở vùng biển nước ngoài bị bắt giữ, xử lý đã giảm 84,35% so với năm 2016; trong đó đã ngăn chặn, chấm dứt tình trạng tàu cá vi phạm các nước, quốc đảo Thái Bình Dương từ năm 2018 đến nay.
Lực lượng kiểm ngư tăng cường tuần tra, kiểm tra, kiểm soát trên biển
Công tác thực thi pháp luật, xử phạt vi phạm hành chính cũng được triển khai tích cực tại nhiều địa phương. Tính từ đầu năm 2023 đến nay, cả nước có 2.111 vụ vi phạm bị xử phạt với số tiền là gần 44,5 tỷ đồng.
Bên cạnh tăng cường xử lý vi phạm, Việt Nam đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế về chống khai thác IUU. Đến nay, Việt Nam đã ký kết cấp Chính phủ với Indoneisa về Tuyên bố chung về Hợp tác quốc tế tự nguyện chống khai thác IUU; Biên bản ghi nhớ về sử dụng đường dây nóng chống khai thác IUU với Bruney.
Bộ NN&PTNT Việt Nam cũng đã ký kết Bản ghi nhớ (MOU) về chống đánh bắt cá bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định với Bộ Nông nghiệp và Tài nguyên nước Australia; ký kết MOU với Hoa Kỳ về thực thi pháp luật chống khai thác IUU.
Hiện Việt Nam đang đàm phán ký kết đường dây nóng chống đánh bắt bất hợp pháp với Thái Lan, Căm-pu-chia; Malaysia, Indonesia; đồng thời vận hành có hiệu quả hoạt động của đường dây nóng phòng chống khai thác IUU giữa Việt Nam - Philippines; triển khai thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực thủy sản với Thái Lan, Campuchia và Philippines.
Tại diễn đàn đa phương, Việt Nam chủ trì xây dựng Sáng kiến “Xây dựng lộ trình chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định trong ASEAN giai đoạn 2020 - 2025”; tham gia tích cực các cam kết quốc tế, khu vực về chống khai thác IUU; thực hiện đầy đủ trách nhiệm của quốc gia không phải là thành viên nhưng là bên hợp tác của Tổ chức quản lý nghề cá Trung Tây Thái Bình Dương. Đồng thời hợp tác với các tổ chức quốc tế như Trung tâm phát triển nghề cá Đông Nam Á (SEAFDEC), Tổ chức Nông Lương Liên Hợp quốc (FAO) để triển khai các giải pháp thực hiện các quy định biện pháp quốc gia có cảng, truy xuất nguồn gốc điện tử, chuyển tải trên biển.
Những kết quả trên cho thấy, Việt Nam đã rất nỗ lực xử lý vấn đề IUU, thể hiện quyết tâm gỡ cảnh báo “Thẻ vàng” của EC và hướng tới mục tiêu lâu dài là phát triển một nghề cá bền vững, có trách nhiệm và hội nhập quốc tế, bảo đảm sinh kế bền vững của cộng đồng ngư dân ven biển./.
P.V