Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ đẩy mạnh liên kết để phát triển bứt phá

30/08/2019 - 02:12 PM
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ - Sự phát triển ấn tượng

Báo cáo về tình hình phát triển kinh tế - xã hội chung của Vùng KTTĐ Bắc bộ và kết quả thực hiện các quyết định của Thủ tướng Chính phủ về phát triển Vùng KTTĐ cho thấy, trong giai đoạn 2016-2018 và những tháng đầu năm 2019, Vùng KTTĐ Bắc bộ tiếp tục phát triển, đạt được kết quả tích cực, vượt nhiều chỉ tiêu đề ra tại Quyết định số 198/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Theo đó, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân của Vùng trong 03 năm qua đạt 9,08%/năm, cao nhất trong các vùng KTTĐ (trong đó, nổi bật nhất là Hải Phòng đạt 14,57%/năm). GRDP bình quân đầu người của Vùng năm 2018 đạt 4.813 USD, gấp 1,86 lần mức trung bình cả nước. Tổng GRDP của Vùng năm 2018 chiếm tỉ trọng 31,73% GDP của cả nước, đứng thứ hai, sau Vùng KTTĐ phía Nam (trong đó, Hà Nội tiếp tục khẳng định vai trò đầu tàu với tỷ trọng đóng góp đạt gần 17% GDP cả nước).

 
Cơ cấu kinh tế dịch chuyển tích cực, tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm từ 3,98% xuống còn 3,71%, vượt mục tiêu đề ra tại Quyết định số 198/QĐ-TTg. Tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới được đẩy mạnh, chuyển dịch theo hướng nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp. Đến hết năm 2018, toàn Vùng có 936/1.217 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm tỷ lệ gần 77%, cao nhất trong 4 vùng KTTĐ và cao hơn nhiều so với tỷ lệ bình quân của cả nước (46,48%).

 
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ đẩy mạnh liên kết để phát triển bứt phá

Ngành công nghiệp - xây dựng tiếp tục là trụ cột tăng trưởng của Vùng và tập trung đều vào tất cả các địa phương, thu hút được nhiều dự án đầu tư quy mô lớn, quan trọng tại một số tỉnh, thành phố, như: Bắc Ninh, Hà Nội, Hải Phòng. Giai đoạn 2016-2018, ngành công nghiệp - xây dựng của Vùng đóng góp gần 40% GDP cả nước và tập trung chủ yếu từ các ngành công nghiệp mũi nhọn, như: Điện, điện tử, lắp ráp ô tô, đóng tàu, dệt may, công nghiệp phụ trợ. Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng trưởng ấn tượng, một số địa phương trong Vùng nằm trong tốp những địa phương tăng trưởng cao nhất cả nước, trong đó thành phố Hải Phòng tăng trên 25%, cao nhất từ trước đến nay.

Các ngành dịch vụ tăng trưởng mạnh mẽ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng bình quân 13,2%/năm, kim ngạch xuất khẩu của Vùng tăng bình quân 25,6%/năm, chiếm tỷ trọng 32% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, vượt trước 2 năm so với mục tiêu đề ra. Trong giai đoạn 2016-2018, kim ngạch xuất khẩu của Vùng tăng 57%, tăng từ 49,6 tỷ USD năm 2016 lên tới 78,1 tỷ USD năm 2018, cao hơn nhiều mức tăng của cả nước giai đoạn này là 38%. Kim ngạch nhập khẩu của Vùng tăng 44,9%, tăng từ 61,8 tỷ USD năm 2016 lên 89,5 tỷ USD năm 2018, cao hơn mức tăng 35,5% của nhập khẩu cả nước. Trong đó, Bắc Ninh là địa phương dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu, đạt 90,5 tỷ USD, chiếm hơn 48% toàn Vùng, với sự đóng góp chủ yếu của dự án Samsung hoạt động trên địa bàn.

Thu ngân sách nhà nước của các địa phương trong Vùng đều đạt và vượt dự toán, trong giai đoạn 2016- 2018 đạt 1.170 nghìn tỷ đồng, tăng bình quân 11,2%/năm, chiếm 31,2% tổng số thu ngân sách cả nước. Từ năm 2017, tất cả 7 địa phương trong Vùng đều có tỷ lệ điều tiết về ngân sách trung ương, đóng góp lớn vào nguồn thu ngân sách của cả nước, trong đó, Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh luôn nằm trong nhóm 5 tỉnh, thành phố có số thu lớn nhất nước, riêng Hà Nội chiếm hơn 19% tổng thu ngân sách cả nước và chiếm hơn 54% tổng thu ngân sách của Vùng.

Môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện, trong đó, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội, Bắc Ninh luôn có chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) nằm trong nhóm cao của cả nước. Quảng Ninh là tỉnh giữ vị trí đứng đầu cả nước trong 2 năm liên tiếp (năm 2017 và năm 2018). Nhờ đó, số lượng doanh nghiệp của Vùng tăng trưởng mạnh, từ 146 nghìn năm 2016 lên trên 204 nghìn doanh nghiệp năm 2018, chiếm 28,6% số doanh nghiệp đang hoạt động trên cả nước (chỉ đứng sau vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với 308 nghìn doanh nghiệp).

Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) phát triển bứt phá, với khoảng 7.000 dự án cấp mới và tăng thêm vốn, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 32,1 tỷ USD, bằng 33% về số dự án và 27% tổng vốn đầu tư đăng ký so với cả nước. Đặc biệt, trong năm 2018, Hà Nội thu hút được 7,5 tỷ USD vốn FDI, lần đầu tiên dẫn đầu cả nước về thu hút vốn FDI.

Công tác y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường và giải quyết các vấn đề xã hội cũng được các địa phương trong Vùng quan tâm và có bước phát triển tích cực. Các trung tâm y tế, bệnh viện được quan tâm đầu tư, phát triển theo hướng hiện đại, kỹ thuật cao, nhất là một số trung tâm y tế chuyên sâu tại thành phố Hà Nội. Toàn Vùng có 95 trường đại học, chiếm 40% số trường trong cả nước, tập trung chủ yếu ở thành phố Hà Nội, chiếm gần 80% của Vùng và gần 32% cả nước, đóng một vai trò rất quan trọng trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho Vùng và cả nước. Giai đoạn 2016-2018, Vùng đã giải quyết việc làm mới cho gần 885 nghìn lao động, chiếm hơn 17% tổng số lao động được giải quyết việc làm mới của cả nước. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm từ 2,5% xuống 1,52%, thấp nhất so với 4 Vùng KTTĐ, vượt trước 2 năm so với mục tiêu đề ra.

Hệ thống hạ tầng giao thông, đô thị tiếp tục được đầu tư xây dựng mạnh mẽ theo hướng đồng bộ, hiện đại, tích cực huy động các nguồn vốn từ tư nhân theo hình thức đối tác công tư (PPP) đầu tư các dự án giao thông trọng điểm có tác động lan tỏa đến sự phát triển của từng địa phương và tăng tính kết nối liên tỉnh, liên vùng. Một số dự án trọng điểm trên địa bàn đã đi vào vận hành như đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, Hải Phòng - Hạ Long, Nội Bài - Hạ Long, Hà Nội - Cầu Giẽ - Ninh Bình, Cầu đường Tân Vũ - Lạch Huyện, Nhà ga T2 Cảng hàng không quốc tế Nội Bài, Cảng Hàng không quốc tế Cát Bi, Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn, Cảng cửa ngõ quốc tế tại Lạch Huyện (Bến Container số 1, 2)… đã tăng tính kết nối giữa các địa phương trong Vùng với cả nước và quốc tế, góp phần đẩy mạnh giao thương hàng hóa, giảm chi phí, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong Vùng. Hiện, toàn Vùng có 27 trung tâm logistics, chiếm 55% tổng số logistics cả nước, tập trung chủ yếu tại Bắc Ninh (14), Hà Nội (11), Hải Phòng (02).

Một số hạn chế và định hướng đẩy mạnh liên kết tạo đà phát triển bứt phá

Có thể thấy, mặc dù đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, song sự phát triển của vùng KTTĐ Bắc bộ cũng đang đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Theo đó, về phát triển kinh tế - xã hội, trong khi ngành dịch vụ hiện đang là ngành có lợi thế và đóng góp lớn nhất cho Vùng, song tốc độ tăng trưởng chưa bền vững, năm 2016 tăng trưởng 9,05% nhưng năm 2018 giảm xuống 7,54%, tỷ trọng dịch vụ trong cơ cấu GRDP của Vùng giảm từ 50,67% năm 2016 xuống còn 47,03% năm 2018; Tăng trưởng xuất khẩu năm 2018 chỉ tăng 20%, thấp hơn mức 31,2% năm 2017; Tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt thấp hơn bình quân cả nước; do phụ thuộc vào một số doanh nghiệp lớn của nước ngoài nên thiếu tính bền vững trước sự biến động của thị trường thế giới.

Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) và chỉ số hiệu quả quản trị hành chính công cấp tỉnh (PAPI) của một số địa phương trong Vùng vẫn chỉ ở mức trung bình thấp của cả nước; và theo đánh giá một số tỉnh vẫn còn dư địa để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh như: Hải Dương, Hưng Yên.

Số lượng doanh nghiệp trong nước của Vùng chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ, chỉ đạt khoảng 10,27 tỷ đồng/1 doanh nghiệp, thấp hơn Vùng KTTĐ phía Nam (10,72 tỷ đồng). Quy mô vốn bình quân trên 1 dự án FDI của Vùng 10,5 triệu USD, thấp hơn quy mô vốn bình quân chung của cả nước (12,2 triệu USD). Bên cạnh đó, liên kết giữa doanh nghiệp FDI và trong nước chưa cao, mức độ nhận chuyển giao công nghệtham gia vào chuỗi giá trị của doanh nghiệp trong nước còn thấp.

Ngoài ra, mặc dù cả 7/7 tỉnh, thành phố của Vùng đều định hướng phát triển công nghiệp điện tử, phần cứng song mới chỉ có Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh thu hút được các công ty có vốn đầu tư nước ngoài như Samsung, LG, Microsoft, Canon,... song cũng mới chỉ dừng lại chủ yếu gia công, lắp ráp phần cứng với giá trị gia tăng thấp. Các sản phẩm công nghệ cao gắn với việc phát triển các trung tâm nghiên cứu phát triển (R&D) còn rất hạn chế. Công nghiệp phần mềm và nội dung số chỉ mới tập trung tại thành phố Hà Nội nhưng năng lực cạnh tranh còn thấp, quy mô nhỏ, chủ yếu phục vụ nhu cầu trong nước.

Trước xu thế hội nhập, yêu cầu về phát triển chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là các ngành khoa học công nghệ 4.0 của Vùng chưa đáp ứng được yêu cầu. Các ngành nghề đào tạo còn chưa thực sự gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và thị trường lao động. Đặc biệt, sự bất bình đẳng về mức sống giữa các địa phương trong Vùng và giữa khu vực thành thị và nông thôn trong Vùng còn khá cao. Khoảng cách phát triển giữa các địa phương còn lớn, GRDP bình quân đầu người của Hà Nội, Quảng Ninh cao gấp gần 2 lần so với Hải Dương, Hưng Yên…

Để từng bước khắc phục những hạn chế bất cập trong phát  triển  kinh  tế - xã hội, vấn đề hiện nay của Vùng là cần  hoàn  thiện  hệ  thống  pháp  luật,  thể  chế  hóa  cơ  chế  điều  phối  liên  kết  phát  triển kinh tế Vùng; Giải quyết tốt bài toán điều phối vùng hiệu quả, đặc biệt là những vấn đề mang tính liên tỉnh, liên vùng. Theo đó, cần đẩy mạnh vai trò của  Hội  đồng  Vùng,  tăng  cường  liên  kết các lĩnh vực công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ theo hướng sâu rộng hơn. Mục tiêu phát triển của Vùng đi đầu về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, đi đầu trong 3 đột phá chiến lược và đặc biệt là cơ cấu lại nền kinh tế trên tinh thần phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường.

Việc xây dựng quy hoạch tổng thể Vùng cần gắn với tầm nhìn dài hạn, tích hợp đa ngành; đề cao tính liên kết, hợp tác, thống nhất về nhận thức vì sự phát triển chung. Tiếp tục phát huy tính chủ động, sáng tạo của các thành viên Hội đồng Vùng, phân định rõ trách nhiệm và tăng cường phối hợp giữa Ban chỉ đạo, các Bộ, ngành và địa phương trong Vùng. Đồng thời, các địa phương cần có sự cam kết chính trị mạnh mẽ trong việc thực hiện đẩy mạnh các hoạt động liên kết.

Việc ban hành chế, chính sách có quy định rõ liên kết Vùng phải theo hướng ưu tiên phát triển kinh tế tri thứctiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đẩy mạnh hợp tác giáo dục đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, chuyên sâu… Bên cạnh đó, Vùng cũng đang từng bước làm hơn mô hình tăng trưởng, phát triển kinh tế số, kinh tế tuần hoàn hướng đến tăng trưởng xanhđẩy mạnh phát triển dịch vụ logistic.

Với định hướng đẩy mạnh liên kết trong phát triển kinh tế - xã hội, vùng KTTĐ Bắc bộ đang kỳ vọng vào sự phát triển đột phá trong một tương lai không xa. Bởi, sự liên kết chặt chẽ đó sẽ góp phần tạo động lực phát triển đồng bộ 07 tỉnh, thành phố trong Vùng, phát huy tốt các tiềm năng, lợi thế, tạo ra động lực mới cho sự phát triển, tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh trong xu thế hội nhập hiện nay./.

ThS. Nguyễn Thị Thọ
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top