Từ đầu năm 2020 đến nay, dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp và ảnh hưởng nặng nề đến hầu khắp các nước trên toàn cầu. Việt Nam là một trong các quốc gia được đánh giá là thành công trong phòng, chống dịch. Song dịch bệnh Covid-19 cũng gây những tác động tiêu cực đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội và đời sống dân sinh. Nhằm kịp thời cung cấp cho Đảng và Nhà nước số liệu về ảnh hưởng của dịch bệnh tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ ngày 10/4/2020 đến ngày 20/4/2020, Tổng cục Thống kê đã triển khai khảo sát các doanh nghiệp trên phạm vi cả nước, hoạt động trong tất cả các ngành kinh tế bằng hình thức trực tuyến, sử dụng bảng hỏi điện tử trên hệ thống Điều tra doanh nghiệp năm 2020 của Tổng cục Thống kê.
Tính đến thời điểm kết thúc khảo sát, có 126.565 doanh nghiệp tham gia trả lời, chiếm gần 20% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả SXKD tại thời điểm hiện nay (trong đó có 51/66 tập đoàn, tổng công ty có quy mô lớn, hạch toán toàn ngành).
Hầu hết các doanh nghiệp trên cả nước đều bị tác động bởi dịch Covid-19
Tại thời điểm điều tra (10/4/2020-20/4/2020), có tới 85,7% số doanh nghiệp trên phạm vi cả nước bị tác động của dịch Covid-19. Trong đó, Nhóm doanh nghiệp lớn (hiện chiếm 2,8% tổng số doanh nghiệp) là nhóm có tỷ lệ doanh nghiệp chịu tác động nhiều nhất với 92,8%; tỷ lệ này của nhóm doanh nghiệp vừa là 91,1%, nhóm doanh nghiệp nhỏ là 89,7%; và nhóm doanh nghiệp siêu nhỏ (hiện chiếm 62,6% toàn bộ doanh nghiệp) là 82,1%.
Theo loại hình doanh nghiệp, doanh nghiệp FDI là đối tượng đang chịu nhiều tác động của dịch Covid-19 nhất, với 88,7%; tỷ lệ này đối với nhóm doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài Nhà nước lần lượt là 87,3% và 85,5%.
Theo khu vực kinh tế, tại thời điểm hiện nay, khu vực công nghiệp và xây dựng và khu vực dịch vụ đang chịu nhiều tác động nhất từ dịch Covid-19 với tỷ lệ doanh nghiệp bị tác động lần lượt là 86,1% và 85,9%; trong khi khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chịu ảnh hưởng ít hơn với 78,7% (tuy nhiên quy mô của các doanh nghiệp khu vực này chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp trong toàn bộ doanh nghiệp).
Đáng chú ý, một số ngành kinh tế có tỷ lệ doanh nghiệp chịu tác động tiêu cực của dịch Covid-19 cao, điển hình như: Ngành hàng không 100%; ngành dịch vụ lưu trú 97,1%; dịch vụ ăn uống 95,5%; hoạt động của các đại lý du lịch 95,7%; giáo dục và đào tạo 93,9%; tiếp đến là các ngành dệt, may, sản xuất da, các sản phẩm từ da, sản xuất các sản phẩm điện tử, sản xuất ô tô đều có tỷ lệ trên 90%.
Theo vùng kinh tế: Vùng Đồng bằng sông Hồng, Vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung (vùng có nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch, khách sạn, nhà hàng) là hai vùng có tỷ lệ doanh nghiệp chịu tác động nhiều nhất từ dịch Covid-19, với tỷ lệ trên 88,5%. Một số địa phương như: Hà Nội, Hải Phòng, Khánh Hòa,… có tỷ lệ doanh nghiệp chịu tác động của dịch Covid- 19 cao nhất, trên 92%. Các tập đoàn, tổng công ty có quy mô kinh tế lớn có tỷ lệ doanh nghiệp chịu tác động lên tới 94,6%.
Những khó khăn và gánh nặng của doanh nghiệp
Dịch Covid-19 đã và đang ảnh hưởng sâu, rộng tới mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội, kéo theo hàng loạt những vấn đề mà doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt như: Thiếu hụt nguồn vốn cho SXKD, thị trường cung - cầu trong nước bị thu hẹp, hoạt động xuất, nhập khẩu bị đình trệ…Những khó khăn chính của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay gồm:
Một là, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp
Có tới 57,7% số doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 cho rằng, thị trường tiêu thụ bị giảm mạnh. Đáng chú ý, trong các doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu, có tới 47,2% doanh nghiệp khẳng định hàng hóa sản xuất ra không xuất khẩu được.
Theo quy mô doanh nghiệp: Có 68,1% doanh nghiệp có quy mô lớn và 64,7% doanh nghiệp có quy mô vừa là các nhóm chịu nhiều ảnh hưởng nhất do thị trường tiêu thụ bị thu hẹp. Đây cũng là hai khu vực doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu xuất khẩu của toàn bộ nền kinh tế. Doanh nghiệp không chỉ chịu ảnh hưởng nhiều bởi thị trường tiêu thụ trong nước bị thu hẹp mà còn do hàng hóa sản xuất ra không xuất khẩu được. Trong số các doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu, tỷ lệ doanh nghiệp không xuất khẩu được hàng hóa lên tới 56,9% và 46,2% cho nhóm doanh nghiệp có quy mô lớn và quy mô vừa; tỷ lệ này ở nhóm doanh nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ thấp hơn với 40,7% và 28,0%.
Theo loại hình doanh nghiệp: Có 61,2% doanh nghiệp FDI chịu tác động từ thị trường tiêu thụ và có đến 53,8% doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu không xuất khẩu được hàng hóa.
Theo ngành kinh tế: Một số ngành công nghiệp trọng điểm đang phải đối mặt với những khó khăn khi hầu hết các doanh nghiệp quy mô lớn phụ thuộc nhiều vào thị trường xuất khẩu, cụ thể: Đối với doanh nghiệp xuất khẩu ngành may mặc và da giày, tỷ lệ doanh nghiệp không xuất khẩu được hàng hóa lần lượt là 64,5% và 65,0%. Tiếp theo, ngành sản xuất các sản phẩm điện tử và sản xuất ô tô cũng gặp khó khăn khi doanh nghiệp không xuất khẩu được hàng hóa chiếm tỷ lệ khá cao, trên 45,0 %.
Hai là, thị trường cung cấp nguyên liệu đầu vào bị thiếu hụt
Dịch Covid-19 càng kéo dài, nguyên vật liệu đầu vào dự trữ của doanh nghiệp càng cạn kiệt. Tính đến thời điểm điều tra, có 22,1% doanh nghiệp bị thiếu hụt nguyên liệu đầu vào. Đây là vấn đề dễ dàng nhận thấy khi thị trường nhập khẩu chủ yếu của nước ta đều là các nước đang phải hứng chịu hậu quả nặng nề từ dịch như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản,…
Doanh nghiệp quy mô lớn là đối tượng gặp nhiều khó khăn nhất trong tiếp cận nguồn nguyên liệu đầu vào, với 42,8% số doanh nghiệp. Nguồn nguyên liệu bị thiếu hụt của doanh nghiệp chủ yếu đến từ nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Nếu xét riêng doanh nghiệp quy mô lớn có hoạt động nhập khẩu nguyên liệu đầu vào, khi đó tỷ lệ doanh nghiệp thiếu hụt lên tới 53,8%.
Doanh nghiệp FDI là đối tượng chủ yếu bị thiếu hụt nguồn nguyên liệu đầu vào, với 39,6% số doanh nghiệp bị thiếu hụt. Nếu chỉ tính riêng đối với doanh nghiệp nhập khẩu thì tỷ lệ trên tăng lên mức 56,9%.
Đối với các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành may mặc và da giày cần sử dụng nguồn nguyên liệu nhập khẩu, tỷ lệ doanh nghiệp thiếu hụt lên tới 70,3% đối với ngành may mặc và 71,0% đối với ngành da giày. Ngành sản xuất các sản phẩm điện tử và sản xuất ô tô có tỷ lệ thiếu hụt nguyên vật liệu nhập khẩu lần lượt là 62,1% và 58,1%.
Ba là, thiếu hụt nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh
Có tới 45,4% số doanh nghiệp khảo sát đang bị thiếu hụt nguồn vốn cho SXKD, đây là một trong những khó khăn hàng đầu của doanh nghiệp hiện nay và cũng là tình trạng chung của toàn bộ khu vực doanh nghiệp. Theo loại hình doanh nghiệp, khu vực doanh nghiệp Nhà nước có tỷ lệ thiếu hụt nguồn vốn cho SXKD cao nhất với 49,8%. Theo ngành kinh tế, khu vực doanh nghiệp nông, lâm nghiệp và thủy sản có tỷ lệ thiếu hụt vốn cao nhất với 54,1% số doanh nghiệp. Khu vực doanh nghiệp công nghiệp và xây dựng có tỷ lệ thiếu hụt vốn là 52,1%, tỷ lệ này ở khu vực dịch vụ là 40,5%.
Bốn là, gánh nặng lớn nhất của doanh nghiệp là chi trả công lao động
Dịch Covid-19 làm cho tình hình kinh tế cả nước gặp khó khăn, hoạt động SXKD của doanh nghiệp bị đình trệ, bên cạnh đó doanh nghiệp còn chịu áp lực từ các khoản chi phí rất lớn để duy trì hoạt động của doanh nghiệp như: Chi phí thuê mặt bằng, chi trả lãi vay ngân hàng, trả công cho lao động, chi phí thường xuyên khác,…
Theo thang điểm từ 1 đến 5, trong đó: 1 là gánh nặng lớn nhất, 5 là gánh nặng nhỏ nhất, các doanh nghiệp đánh giá mức độ từng loại chi phí doanh nghiệp đang phải đối mặt như sau:
Xếp hạng theo điểm trung bình của toàn bộ khu vực doanh nghiệp, chi trả công lao động được đánh giá là gánh nặng lớn nhất đối với doanh nghiệp thời điểm hiện nay, với điểm số trung bình là 1,89; chi trả lãi vay ngân hàng 2,41 điểm; chi phí hoạt động thường xuyên khác 2,67 điểm; chi phí thuê mặt bằng 2,68 điểm; chi phí khác 4,02 điểm.
Xếp theo tỷ lệ doanh nghiệp chọn loại chi phí là gánh nặng lớn nhất, thì khoản chi trả công lao động được nhiều doanh nghiệp chọn nhất, chiếm tới 40,3%, chi trả lãi vay ngân hàng và chi thuê mặt bằng, với tỷ lệ lựa chọn lần lượt là 30,8% và 27,2%, cuối cùng là chi cho hoạt động thường xuyên khác 16,8%.
Tương tự xu hướng chung của toàn bộ khu vực doanh nghiệp, đánh giá với chi trả công lao động là gánh nặng lớn nhất, khoản chi phí có số lượng doanh nghiệp cho điểm bằng 1 nhiều thứ hai là trả lãi vay ngân hàng (trừ khu vực doanh nghiệp FDI lựa chọn là các khoản chi thường xuyên khác).
Doanh nghiệp với nhiều giải pháp ứng phó dịch COVID-19
Để ứng phó với tác động của dịch Covid-19, doanh nghiệp đã phải áp dụng nhiều giải pháp như: Điều chỉnh nguồn nhân lực, cắt giảm chi phí hoạt động SXKD, thay đổi phương thức cũng như chiến lược SXKD... Nhìn chung, có những giải pháp tác động tích cực đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp nhưng bên cạnh đó cũng có những giải pháp tiêu cực mà doanh nghiệp buộc phải áp dụng để duy trì sự tồn tại trong thời kỳ dịch bệnh này.
Có tới 66,8% số doanh nghiệp phải áp dụng các giải pháp liên quan đến lao động như: Cắt giảm lao động, cho lao động nghỉ việc không lương, giãn việc/nghỉ luân phiên, giảm lương lao động, thu hẹp quy mô SXKD hoặc tạm ngừng hoạt động. Có 39,5% doanh nghiệp lựa chọn giải pháp cho lao động giãn việc/nghỉ luân phiên, cao nhất trong các giải pháp về lao động; có 28,4% doanh nghiệp áp dụng giải pháp cắt giảm lao động; 21,3% doanh nghiệp cho lao động nghỉ không lương và 18,9% doanh nghiệp giảm lương lao động.
Bảng 1: Tỷ lệ doanh nghiệp áp dụng các biện pháp về lao động
để đối phó với tác động của dịch Covid-19
%
|
Có áp dụng các giải pháp liên quan đến lao động
|
Cắt giảm lao động
|
Cho lao động giãn việc/nghỉ luân phiên
|
Cho lao động nghỉ không lương
|
Giảm lương nhân công
|
|
|
|
|
|
|
CẢ NƯỚC
|
66,8
|
28,4
|
39,5
|
21,3
|
18,9
|
Phân theo quy mô doanh nghiệp
|
|
|
|
|
|
+ Doanh nghiệp siêu nhỏ
|
60,0
|
24,8
|
30,6
|
19,9
|
16,8
|
+ Doanh nghiệp nhỏ
|
75,3
|
33,3
|
48,3
|
23,8
|
21,3
|
+ Doanh nghiệp vừa
|
73,3
|
31,2
|
53,1
|
20,5
|
21,7
|
+ Doanh nghiệp lớn
|
70,3
|
27,5
|
53,9
|
19,5
|
19,3
|
Phân theo loại hình doanh nghiệp
|
+ Doanh nghiệp Nhà nước
|
71,1
|
25,9
|
47,1
|
18,4
|
23,1
|
+ Doanh nghiệp ngoài Nhà nước
|
67,2
|
28,7
|
39,4
|
21,8
|
19,2
|
+ Doanh nghiệp FDI
|
56,5
|
23,3
|
39,1
|
13,8
|
10,7
|
Phân theo ngành kinh tế
|
|
|
|
|
|
+ Nông, lâm nghiệp và thủy sản
|
61,2
|
24,9
|
36,9
|
15,4
|
14,2
|
+ Công nghiệp và xây dựng
|
71,1
|
32,8
|
44,2
|
22,0
|
18,4
|
+ Dịch vụ
|
64,3
|
25,6
|
36,6
|
21,3
|
19,4
|
Nền kinh tế bị đình trệ kéo theo nhu cầu về lao động của các doanh nghiệp sụt giảm đã dẫn đến tình trạng cắt giảm lao động ở tất cả các khu vực doanh nghiệp. Tỷ lệ doanh nghiệp cho lao động nghỉ việc nhiều nhất là khối doanh nghiệp ngoài Nhà nước với tỷ lệ lên tới 28,7%; khu vực doanh nghiệp Nhà nước với 25,9% và khu vực doanh nghiệp FDI với 23,3%. Lao động làm việc trong khu vực doanh nghiệp FDI có mức lương ổn định nhất so với các khu vực doanh nghiệp còn lại, chỉ 13,8% doanh nghiệp FDI áp dụng giải pháp cho lao động nghỉ không lương và 10,7% doanh nghiệp áp dụng giải pháp giảm lương nhân viên; trong khi tỷ lệ doanh nghiệp cho lao động nghỉ không lương và giảm lương ở khu vực doanh nghiệp Nhà nước lần lượt là 18,4% và 23,1%; khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước lần lượt là 21,8% và 19,2%.
Theo khu vực kinh tế, khu vực công nghiệp và xây dựng có tỷ lệ doanh nghiệp áp dụng giải pháp cắt giảm lao động và cho lao động giãn việc/nghỉ luân phiên cao nhất, với tỷ lệ lần lượt là 32,8% và 44,2%; khu vực dịch vụ và khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có tỷ lệ doanh nghiệp áp dụng hai giải pháp trên ở mức tương đương, khoảng 25,0% và 36,0%.
Ngoài những giải pháp tiêu cực liên quan đến lao động mà các doanh nghiệp buộc phải áp dụng, để thích ứng với dịch Covid-19, các doanh nghiệp cũng đã nhanh chóng chuyển hướng đi mới. Các giải pháp được doanh nghiệp thực hiện chủ yếu bao gồm: Đẩy mạnh hoạt động thương mại điện tử, chuyển đổi mặt hàng sản phẩm chủ lực, tích cực tìm kiếm thị trường mới cho nguyên liệu đầu vào cũng như thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra ngoài thị trường truyền thống. Bên cạnh đó, cũng có một bộ phận doanh nghiệp tận dụng thời điểm này để tổ chức đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề cho người lao động.
Giải pháp đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn/tay nghề cho người lao động trong thời điểm hiện nay đang được nhiều doanh nghiêp áp dụng, với tỷ lệ cao nhất 44,7%; có 17,0% doanh nghiệp thực hiện giải pháp tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra ngoài thị trường truyền thống; có 7,7% doanh nghiệp thực hiện giải pháp tìm thị trường mới cho nguyên liệu đầu vào. Tiếp đến, các doanh nghiệp lựa chọn các giải pháp: Chuyển đổi sản phẩm chủ lực và đẩy mạnh thương mại điện tử cũng được một bộ phận doanh nghiệp lựa chọn, với tỷ lệ 5,4% và 3,9%.
Theo quy mô, các doanh nghiệp có quy mô lớn thường có thị trường đa dạng và tiềm lực kinh tế vững chắc hơn so với nhóm doanh nghiệp có quy mô nhỏ, vì vậy, tỷ lệ doanh nghiệp lớn áp dụng 5 giải pháp trên đều cao hơn so với nhóm doanh nghiệp có quy mô nhỏ hơn, tỷ lệ này giảm dần theo quy mô của doanh nghiệp.
Theo loại hình doanh nghiệp, doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp FDI có quy mô doanh nghiệp trung bình lớn hơn so với các doanh nghiệp ngoài Nhà nước, vì vậy hai khu vực doanh nghiệp này cũng áp dụng 5 giải pháp với tỷ lệ cao hơn so với khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước.
Đối mặt với thách thức và thiệt hại do dịch Covid-19 kéo dài, doanh nghiệp buộc phải thay đổi từng ngày để thích nghi với tình thế hiện tại, dự kiến trong thời gian tới, doanh nghiệp sẽ triển khai áp dụng nhiều nhất hai giải pháp: Tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra ngoài thị trường truyền thống và đẩy mạnh thương mại điện tử. Không chỉ được áp dụng để đối phó với tình thế trước mắt mà thương mại điện tử được đánh giá là xu thế không thể thiếu trong hoạt động của doanh nghiệp trên toàn thế giới trong tương lai./.
Nguồn: Tổng cục Thống kê