Động lực tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2023

11/01/2023 - 03:57 PM
Năm 2022, tăng trưởng kinh tế Việt Nam phục hồi tích cực, tốc độ cả năm ước đạt 8,02% so năm 2021, cao nhất trong giai đoạn 2011-2022. Đáng mừng là, kinh tế phục hồi đồng đều cả 3 khu vực, trong đó khu vực nông lâm thủy sản tăng 3,4%; khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 7,8% khu vực dịch vụ tăng cao nhất đạt 10%. Bước sang năm 2023, dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới tiếp tục sụt giảm. Chỉ tiêu này của Việt Nam cũng được dự báo thấp hơn so năm 2022. Vậy đâu là động lực tăng trưởng cho kinh tế Việt Nam trong năm 2023?
 

Năm 2022, kinh tế Việt Nam sự hồi phục tăng trưởng mạnh ở cả 3 trụ cột

Nhìn từ phía cầu, năm 2022, kinh tế Việt Nam sự hồi phục tăng trưởng mạnh ở cả 3 trụ cột:

Cầu tiêu dùng tăng trưởng mạnh mẽ: Thể hiện qua tổng mức bán lẻ hàng hóa doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2022 đạt 5,7 triệu tỷ đồng, tăng 19,8% so với năm trước là mức tăng cao trong nhiều năm trở lại đây1.

Đầu tư: Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội năm 2022 ước đạt 3,2 triệu tỷ đồng, tăng 11,2% so với năm trước; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam ước đạt gần 22,4 tỷ USD, tăng 13,5%, cao nhất trong 5 năm qua.

Xuất khẩu: Hoạt động xuất khẩu tăng mạnh, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng 10,6% so với cùng kỳ năm trước; xuất khẩu dịch vụ tăng cao so với năm trước do lượng khách quốc tế tăng. Tính chung năm 2022, khách quốc tế đến nước ta đạt 3,7 triệu lượt người, gấp 23,3 lần so với năm 2021, góp phần làm cho xuất khẩu dịch vụ tăng 142% so với năm trước.

Tuy nhiên, bức tranh kinh tế Việt Nam không hoàn toàn sáng sủa trong cả năm 2022, quý IV chút ảm đạm2. Số liệu thống kê cho thấy, 9 tháng đầu năm 2022 là một bức tranh tươi sáng cho kinh tế Việt Nam, khi kết quả tăng trưởng đạt 8,83%, là mức tăng cao nhất của 9 tháng trong giai đoạn 2011-2022. Nhưng bước sang quý IV, sản xuất công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến chế tạo xu hướng giảm mạnh, do nền kinh tế Việt Nam độ mở lớn, cầu tiêu dùng trên thế giới suy giảm do lạm phát tăng cao, kinh tế khó khăn, đặc biệt là các đối tác thương mại lớn với Việt Nam như Mỹ, EU…

Theo đó, tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp quý IV/2022 chỉ đạt 3,6%, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,98%. Đây đều là các mức tăng thấp nhất của quý IV các năm trong giai đoạn 2011-2022. Chỉ số IIP quý IV/2022 tăng 3% so với cùng kỳ năm 2021, là mức tăng thấp nhất của quý IV các năm 2018-2022. Trong đó, một số ngành tăng thấp hoặc giảm: Dệt tăng 0,2%; sản xuất kim loại giảm 8,3%; sản xuất sản phẩm từ cao su plastic giảm 10,4%; Sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 12,2%.

32,7% doanh nghiệp công nghiệp chế biến chế tạo giảm sản xuất trong quý IV so với quý trước, 30,1% doanh nghiệp dự báo giảm sản xuất trong Quý I năm 20233. Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) xu hướng giảm dần trong quý IV/2022: Tháng Mười đạt 50,6 điểm, tháng Mười một giảm mạnh so với tháng trước (47,4 điểm)4, tháng Mười hai đạt 46,4 điểm, cho thấy mức độ suy thoái ngành sản xuất tăng lên vào cuối năm.

Bên cạnh đó, xuất khẩu hàng hóa Quý IV cũng giảm tốc: Tháng Mười tăng 4,5% so cùng kỳ; tháng Mười một giảm 8,4% tháng Mười hai giảm 14%, dẫn đến ước kim ngạch xuất hàng hóa khẩu quý IV giảm 6,1% (Xuất khẩu 9 tháng năm 2022 tăng 17,5%). Do đó, xuất khẩu cả năm 2022 chỉ tăng 10,6%.

Nguyên nhân của tình trạng này đến nhiều từ yếu tố bên ngoài một phần yếu tố trong nước. Cụ thể:

Về các yếu tố bên ngoài, một phần do nhu cầu tiêu dùng quốc tế suy yếu. Chính sách tiền tệ thắt chặt ở Mỹ các nước Châu Âu nhằm kiểm soát lạm phát khiến cầu tiêu dùng bị sụt giảm. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam.

Yếu tố khác là, thiếu hụt nguồn cung nguyên vật liệu ảnh hưởng lượng khách quốc tế đến Việt Nam. Việc Trung Quốc đóng cửa các nhà máy, đóng cửa nền kinh tế do thực thi Chính sách Zero Covid đã dẫn đến đứt gãy nguồn cung nguyên vật liệu. Điều này tác động mạnh trực tiếp tới Việt Nam, đặc biệt là các ngành hàng như: Dệt may, hóa chất, sản xuất kim loại, sản xuất điện tử... Bên cạnh đó, chính sách Zero Covid của Trung Quốc cũng ảnh hưởng đến du lịch quốc tế, khi 30% khách quốc tế vào Việt Nam trước dịch là khách Trung Quốc.

Ngoài ra, chi phí đầu vào tăng cao do các yếu tố phi kỹ thuật. Xung đột Nga - Ucraina ảnh hưởng lớn đến nguồn cung năng lượng lương thực,nguyên nhân đẩy giá cả nhiều mặt hàng thiết yếu trên thế giới tăng cao.

Về các yếu tố trong nước như tác động lãi suất, đầu tư công, năng lực nội tại của khối doanh nghiệp… ảnh hưởng rất lớn đến phát triển chung của nền kinh tế. Lãi suất trong nước tăng mạnh, đặc biệt lãi suất huy động thỏa thuận trên thị trường đang rất cao (chỉ sau giai đoạn 2009-2013 khủng hoảng tài chính thế giới). Lãi suất cao khiến tiêu dùng cuối cùng sẽ suy giảm, sản xuất trở nên khó khăn hơn, do chi phí sản xuất tăng cao ảnh hưởng lớn đến kế hoạch mở rộng quy mô kinh doanh của doanh nghiệp.

Đầu tư công triển khai chậm so với kế hoạch đã ảnh hưởng đến tăng trưởng kế hoạch khôi phục kinh tế của Việt Nam. Năng lực nội tại của khối doanh nghiệp chưa phục hồi từ đại dịch, cộng với những khó khăn về thị trường, đơn hàng, nguồn hàng khiến nhiều doanh nghiệp Việt Nam buộc phải thu hẹp sản xuất, cắt giảm lao động, giãn giờ làm…

thể nói, thế giới đang trong thời kỳ nhiều biến động, những thay đổi về kinh tế, địa chính trị sinh thái đều tác động đến triển vọng toàn cầu, Việt Nam cũng sẽ không nằm ngoài vòng xoáy này. Những tác động đó sẽ ảnh hưởng lâu dài tới nền kinh tế Việt Nam, ít nhất trong nửa đầu năm 2023khả năng hoàn thành mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong năm 2023.

Động lực tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2023

Hầu hết các tổ chức quốc tế đều nhận định, kinh tế toàn cầu năm 2023 sẽ khó khăn hơn năm 2022, theo báo cáo cập nhật vào tháng 12/2022, một số tổ chức quốc tế đã hạ dự báo tăng trưởng toàn cầu: Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã hạ mức tăng trưởng từ 2,9% xuống còn 2,7% so với thời điểm tháng 7/2022. Fitch Ratings điều chỉnh so với dự báo trong tháng 9/2022, từ mức 1,7% xuống còn 1,4%. Tổ chức Hợp tác Phát triển kinh tế (OECD) đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023 xuống mức 2,2% thay vì 2,8% như trong dự báo hồi tháng 6.

Đối với dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2023 của Việt Nam, các tổ chức quốc tế nhận định kinh tế Việt Nam vẫn phát triển ở mức khá, mặc dù đãdự báo giảm so với trước đó: IMF dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2023 của Việt Nam đạt 6,2%; WB dự báo đạt 6,7%; ADB dự báo đạt 6,3%.

Quốc hội Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng năm 2023 là 6,5%, thấp hơn kết quả đạt được của năm 2022 là 8,02%, tuy nhiên đây cũng là mục tiêu đầy thách thức trong bối cảnh khó khăn chung trên toàn thế giới cũng như tại Việt Nam.

Trước những diễn biến khó khăn của kinh tế thế giới dựa trên những thành tựu đã đạt được trong năm 2022, một số động lực tăng trưởng của Việt Nam trong năm 2023 thể kể đến như:

Theo góc độ sản xuất: Đối với ngành nông, lâm nghiệpthủy sản, trong khó khăn, luôn thể hiện vai trò là bệ đỡ của nền kinh tế, đồng thời Ngành này cũng đang thực hiện quá trình Tái cấu chuyển từ “sản xuất nông nghiệp” sang “kinh tế nông nghiệp” cũng đã đạt được những kết quả tích cực. Do vậy, kết quả tăng trưởng sẽ ổn định khoảng 3% như những năm gần đây.

Về ngành công nghiệp, nhóm ngành Công nghiệp chế biến chế tạo, nhất là sản xuất hàng tiêu dùng xuất khẩu (may mặc, da giầy, điện tử, đồ gỗ) dự báo sẽ suy giảm, do cầu tiêu dùng thế giới giảm, đặc biệt trong quý I thể sang quý II/2023. vậy, chuyển hướng sang khai thác hiệu quả thị trường nội địa 100 triệu dân còn nhiều tiềm năng sẽ là giải pháp khả thi để bù đắp sự sụt giảm từ thị trường xuất khẩu.

Ngành xây dựng sẽ nhiều tín hiệu khả quan, khi trong năm 2023 khởi công đồng loạt 12 dự án thành phần thuộc dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021 - 2025.

Khu vực dịch vụ trong năm 2023 tiếp tục sự tăng trưởng khá, nhấthoạt động thương mại điện tử xu hướng phát triển mạnh trong những năm gần đây. Khách du lịch trong nước quốc tế tiếp tục dự báo tăng cao, khi đó những ngành chưa hoàn toàn phục hồi, hoặc phục hồi chậm so với trước đại dịch sẽ tăng trưởng cao như: Dịch vụ lưu trú, ăn uống; vận tải; hoạt động hành chính dịch vụ hỗ trợ; nghệ thuật vui chơi, giải trí.

Theo góc độ sử dụng: Năm 2023, là điểm rơi của đầu tư công trung hạn giải ngân thực hiện gói đầu tư sở hạ tầng thuộc chương trình phục hồi phát triển kinh tế - xã hội. Khi thực hiện đây sẽ là nguồn vốn mồi thúc đẩy đầu tư tư nhân, thúc đẩy sản xuất, kích cầu nền kinh tế. Bên cạnh đó, dòng vốn FDI vào Việt Nam dự báo tăng khá, với việc một số dự án lớn đang hoàn thành thủ tục đầu tư (dự kiến đăng thực hiện trong quý I/2023); Chính sách dịch chuyển dòng vốn FDI của các doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan điểm đến thể là Việt Nam. Theo đó, các công ty tại Việt Nam tiếp tục đa dạng hóa chuỗi cung ứng, đây sẽ là động lực chính trong tăng trưởng kinh tế năm 2023.

Một yếu tố khác là cầu tiêu dùng năm 2023 sẽ tiếp tục hồi phục sau đại dịch được hỗ trợ từ nhu cầu du lịch trong nước.

Bên cạnh đó, mặc dù năm 2023 được dự báo sẽ khó khăn khi xuất khẩu đến các đối tác thương mại lớn của Việt Nam như M, EU, tuy nhiên, Việt Nam có thể bù đắp ở các thị trường FTA thế hệ mới như RCEP. Đặc biệt, với việc Trung Quốc mở cửa trở lại, nới lỏng chính sách Zero Covid, khi đó Việt Nam thể xuất khẩu những mặt hàng tiêu dùng vào thị trường hơn 1,4 tỷ dân sau thời gian dài cách ly. Cùng với đó, lượng lớn khách du lịch từ Trung Quốc sẽ đến Việt Nam (năm 2019 khách Trung Quốc chiếm 30% khách du lịch quốc tế vào Việt Nam), kéo theo xuất khẩu dịch vụ sẽ tăng mạnh.

Tóm lại, dù còn nhiều khó khăn nhưng với các chính sách tiếp tục hỗ trợ phát triển kinh tế của Chính phủ trong năm 2023, tin rằng kinh tế nước ta hoàn toàn thể đạt được mục tiêu tăng trưởng 6,5% như Quốc hội đã đề ra./.

 

  Trung Hiếu

Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thống 

_____________________

1. Tốc
độ tăng/giảm tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng các năm 2018-2022 lần lượt là: 11%; 12,5%; 0,75%; -4,8%; 19,8%.

2. GDP quý IV/2022 ước tính tăng 5,92% so với cùng kỳ năm trước, tuy cao hơn tốc độ tăng 4,7%5,17% của cùng kỳ năm 2020 và năm 2021 nhưng đã thấp hơn tốc độ tăng của quý IV các năm 2011 - 2019.

3. Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý IV/2022 của Tổng cục Thống kê.

4. Tháng 11/2022 giảm mạnh xuống dưới 50 điểm, thấp nhất trong các tháng từ khi mở cửa lại nền kinh tế (tháng 10/2021).

Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top