Phát triển điện sinh khối tại Việt Nam: Tạo cơ chế khuyến khích đầu tư

23/06/2022 - 03:19 PM
Với vị trí địa lý cũng như hệ thực vật tự nhiên phong phú, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia giàu tiềm năng về năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng sinh khối. Tuy nhiên, theo giới chuyên gia, việc khai thác và sử dụng nguồn năng lượng sinh khối ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa hiệu quả và cần thêm nhiều giải pháp tích cực hơn, đặc biệt là các cơ chế, chính sách khuyến khích để phát triển.
 
Nhiều tiềm năng nhưng vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ
 
Trong bối cảnh ngày càng cạn kiệt nhiên liệu hóa thạch, giá dầu thế giới tăng cao và sự phụ thuộc ngày càng nhiều hơn vào giá năng lượng thế giới, khả năng đáp ứng năng lượng đủ cho nhu cầu trong nước ngày càng khó khăn thì việc xem xét khai thác nguồn năng lượng tái tạo sạch, đặc biệt là năng lượng sinh khối có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về kinh tế, xã hội và phát triển bền vững tại Việt Nam.

Việt Nam là nước có tiềm năng rất lớn về nguồn năng lượng sinh khối từ chất thải từ nông nghiệp, rác, nước thải đô thị… phân bổ rộng khắp trên toàn quốc, trong đó, một số dạng sinh khối có thể sản xuất điện hoặc áp dụng công nghệ đồng phát năng lượng (sản xuất cả điện và nhiệt). Lượng sinh khối khổng lồ này, nếu không được xử lý sẽ là nguồn ô nhiễm lớn và phát sinh liên tục, gây nên những ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hệ sinh thái (đất, nước và không khí) cũng như sức khỏe con người.

 

Ảnh minh họa, nguồn Internet
 
Hàng năm, tại Việt Nam có gần 60 triệu tấn sinh khối từ phế phẩm nông nghiệp, trong đó 40% được sử dụng đáp ứng nhu cầu năng lượng cho hộ gia đình và sản xuất điện. Theo số liệu tính toán, cứ 5 kg trấu tạo ra 1kWh điện, như vậy với lượng trấu hàng triệu tấn, mỗi năm Việt Nam có thể thu được hàng trăm MW điện. Trong tự nhiên, các dạng sinh khối còn rất nhiều, bao gồm cây cối, cây trồng công nghiệp, tảo và các loài thực vật khác, hoặc là những bã nông nghiệp và lâm nghiệp (rơm rạ, bã mía, vỏ, xơ bắp, lá khô, vụn gỗ v.v...), giấy vụn, mêtan từ các bãi chôn lấp, trạm xử lý nước thải, phân từ các trại chăn nuôi gia súc và gia cầm…

Theo tính toán Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo, Bộ Công Thương, đến năm 2035, tiềm năng phát triển điện sinh khối từ trấu khoảng 370 MW; gỗ củi, phụ phẩm lâm nghiệp 3.360 MW, bã mía 470 MW, rơm rạ 1.300 MW, khí sinh học 1.370 MW. Tổng tiềm năng các loại hình này là hơn 9.600 MW.

Hiện nay, Việt Nam đã có một số dự án xây dựng nhà máy điện sinh học tại miền Bắc như: Dự án xây dựng nhà máy điện sinh học Biomass tại khu Rừng Xanh, thị trấn Phong Châu, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ với tổng mức đầu tư 1.160 tỉ đồng, công suất 40 MW, sản lượng điện là 331,5 triệu kWh/năm. Một số nhà đầu tư đang triển khai dự án điện sinh khối tại các tỉnh Tuyên Quang, Yên Bái, Lạng Sơn. Tuy nhiên, việc triển khai các dự án điện sinh khối vẫn còn không ít khó khăn, thách thức như: Khó khăn trong việc kiểm soát nguồn nhiên liệu, khả năng cung cấp nhiên liệu cho nhà máy thiếu tính ổn định và bền vững, giá nhiên liệu thay đổi theo mùa vụ, vốn đầu tư ban đầu khá lớn, quy mô phân tán nhỏ lẻ (trừ các nhà máy đường). Bên cạnh đó, cơ chế giá khuyến khích mua điện chưa hấp dẫn các nhà đầu tư, thiếu kinh nghiệm phát triển, thiếu kỹ sư và nhân công lành nghề cho các dự án năng lượng sinh khối, thiếu thông tin và cơ sở dữ liệu chưa đủ tin cậy. Đặc biệt là các nhà đầu tư các dự án sinh khối cho rằng giá điện sinh khối hiện nay vẫn chưa như kỳ vọng, điều này có thể tác động đến quyết định đầu tư các dự án sinh khối.

Theo Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, tỷ lệ năng lượng sinh khối trong sản xuất điện lên 1% vào năm 2020; 2,1% vào năm 2030 và 8,1% vào năm 2050. Tuy nhiên, theo báo cáo tổng kết vận hành hệ thống điện quốc gia năm 2021 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, công suất lắp đặt các nhà máy điện sinh khối đến hết năm 2021 là 325 MW, chiếm tỷ lệ 0,42% tổng công suất lắp đặt. Sản lượng điện năm 2021 của loại hình này đạt 321 triệu kWh, chiếm 0,13% sản lượng toàn hệ thống. Điều này cho thấy, vẫn còn một khoảng cách xa để đạt được mục tiêu phát triển năng lượng sinh khối, dù Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế khuyến khích phát triển; trong đó có cơ chế hỗ trợ giá FIT (biểu giá điện hỗ trợ)...
Tạo cơ chế khuyến khích đầu tư
Việt Nam có nhiều tiềm năng về phát triển điện sinh khối, tuy nhiên, việc khai thác các nguồn tài nguyên sinh khối này còn những hạn chế nhất định. Mặc dù, Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế khuyến khích nhằm thu hút các nhà đầu tư, nhưng cho đến nay tổng công suất lắp đặt của các nhà máy điện sinh khối vẫn còn rất nhỏ trong tổng công suất lắp đặt của các nhà máy điện tại Việt Nam. Do vậy, để phát triển mạnh mẽ nguồn điện sinh khối, Việt Nam cần những giải pháp tốt hơn để khuyến khích các nhà đầu tư.

Bên cạnh đó, theo dự thảo Quy hoạch Điện VIII, công suất lắp đặt năng lượng sinh khối đến năm 2030 của Việt Nam là 1.730MW. Để mục tiêu này trở thành hiện thực, Việt Nam sẽ cần nhiều hơn những cơ chế khuyến khích, thu hút đầu tư vào loại hình năng lượng này.

Nhiều chuyên gia cho rằng, cần tập trung thu hút đầu tư cả về công nghệ và nguồn tài chính của nhà đầu tư tư nhân trong điện sinh khối. Có thể xem xét "thưởng thêm" cho các công nghệ tiên tiến, mang lại hiệu quả cao.

Chia sẻ kinh nghiệm phát triển nguồn năng lượng sinh khối tại một số quốc gia trên thế giới, chuyên gia quốc tế về năng lượng sinh khối (GIZ) cho biết, hiện nay, nhiều nước trong khu vực đã có mức giá ưu đãi FIT (một giá) với điện sinh khối rất tốt như Thái Lan, Malaysia... Việt Nam cũng đã có cơ chế giá FIT, tuy nhiên, chưa đủ để khuyến khích loại hình năng lượng này phát triển, do vậy cần có cơ chế hỗ trợ người dân vùng nguyên liệu, cơ giới hóa, hướng tới mục tiêu phát triển nền năng lượng carbon thấp...
Bên cạnh đó, mức giá FIT của Việt Nam mới chỉ 8,47 cent/kWh (công nghệ không đồng phát), thấp hơn so với nhiều nước như Thái Lan, Malaysia, Philippines. Với mức giá ưu đãi thấp, sẽ khó để các ngân hàng cấp vốn, bởi nhiều rủi ro trong đầu tư. Vì nếu giá FIT không thực sự tốt, thị trường tài chính không có đủ đòn bẩy, khuyến khích các ngân hàng sẵn sàng cung cấp nguồn vốn.

Theo Công ty CP Tư vấn Xây dựng điện 1, để thúc đẩy phát triển năng lượng sinh khối, bên cạnh việc hỗ trợ về giá, cũng cần có cơ chế thông thoáng, gỡ“vướng” các quy định, thủ tục đầu tư; cần có chỉ đạo, rà soát, sửa đổi các văn bản pháp luật, các quy trình, thủ tục còn vướng mắc giữa các quy định hiện hành về quản lý đầu tư xây dựng trong lĩnh vực quản lý chất thải sinh hoạt đô thị, đồng thời, cụ thể hóa chính sách ưu đãi đầu tư. Khi có cơ chế hợp lý, đơn giản hóa thủ tục hành chính sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư vào phát triển nguồn năng lượng này.

Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho hay, khó khăn đầu tiên để phát triển điện sinh khối là tài chính và công nghệ. Công nghệ không phải quá khó, Việt Nam có thể làm chủ, nhiều đơn vị đã và đang nghiên cứu, làm chủ công nghệ. Nhưng cần có thêm cơ chế để thu hút đầu tư hấp dẫn hơn. Cùng với đó cần phải có những vùng nguyên liệu bền vững và chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư.

Việt Nam đang nỗ lực và huy động sự hỗ trợ cả về công nghệ và tài chính của các tổ chức quốc tế, hướng tới giảm phát thải bằng 0 vào năm 2050. Vì vậy, việc đẩy mạnh phát triển điện sinh khối bền vững sẽ là chìa khóa để hướng tới mục tiêu phát triển một nền năng lượng các bon thấp, cũng như phù hợp với mục tiêu biến đổi khí hậu của Việt Nam. /.

ThS. Nguyễn Thùy Dương
Đại học Công nghiệp Hà Nội

 
 
Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top