Thách thức và những động lực tăng trưởng kinh tế năm 2020

31/12/2019 - 11:29 AM

Năm 2019 - một năm đầy thách thức đã khép lại, kinh tế nước ta đã đạt được một số thành tựu ấn tượng, trong đó đặc biệt là mức tăng trưởng kinh tế đạt 7,02%, là tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Kết quả ấn tượng đó là nền tảng vững chắc để nhân dân cả nước bước sang năm 2020 với sự hứng khởi và tự tin. Song, năm Canh Tý 2020 - năm cuối cùng thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016-2020, cũng đang đặt ra rất nhiều thách thức. Vượt qua thách thức thế nào để xây dựng đất nước bước sang giai đoạn mới với niềm tin mới, khí thế mới, vị thế mới là câu hỏi đặt ra cho các cấp, các ngành.
 

Năm 2020 - còn đó những thách thức
 

Mặc cho những dự đoán khá bi quan của các tổ chức, định chế kinh tế quốc tế lớn về sự phát triển khá ảm đạm của nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới trong năm 2019, kinh tế nước ta vẫn đạt được những thành tựu khả quan, rất đáng ghi nhận: Năm 2019 là năm thứ hai liên tiếp, tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt trên 7% kể từ năm 2011; kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát thấp nhất trong 3 năm qua; công nghiệp chế biến, chế tạo và dịch vụ thị trường đóng vai trò động lực tăng trưởng kinh tế đất nước; kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa vượt mốc 500 tỷ USD... Bên cạnh đó, cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tích cực; tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm giảm dần, thu nhập của người lao động tăng lên; an sinh xã hội được quan tâm thực hiện. Những thành tựu đó là kết quả của sự nỗ lực không ngừng của mọi tầng lớp nhân dân; sự điều hành hiệu quả của Nhà nước, chính quyền các cấp...
 

 Bước sang năm 2020, bên cạnh những kết quả đạt được, kinh tế nước ta vẫn còn không ít khó khăn, hạn chế và tiếp tục đối mặt với những thách thức mới: Một trong những quan ngại sâu sắc đã được cảnh báo từ cách đây nhiều năm và đang dần trở thành hiện thực đó là hiện tượng biến đổi khí hậu, hạn hán, nắng nóng kéo dài, an ninh nguồn nước ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất, sản lượng cây trồng, tác động tiêu cực tới sản xuất và đời sống nhân dân. Năm 2019, nông nghiệp nước ta chịu những ảnh hưởng rất nặng nề bởi dịch tả lợn châu Phi ở tất cả địa phương, tác động không nhỏ tới nhu cầu thực phẩm, đời sống của nhân dân cả nước, đặc biệt là đối với những người có thu nhập thấp.
 

Giá xuất khẩu bình quân của nhiều mặt hàng nông sản giảm so với năm trước nên kim ngạch xuất khẩu hầu hết các mặt hàng nông sản, thủy sản năm 2019 đều giảm. Nền kinh tế nước ta có độ mở ngày càng lớn, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2019 vượt trên 500 tỷ USD, cho thấy kinh tế nước ta phụ thuộc ngày càng nhiều vào bên ngoài. Do vậy, mọi biến động của thế giới dù nhỏ cũng tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến kinh tế trong nước, trong khi khả năng chống chịu trước những biến động của bên ngoài còn hạn chế. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo mặc dù đạt tốc độ tăng trưởng cao nhưng khó duy trì tốc độ tăng như năm nay trong những năm tiếp theo.
 

Bên cạnh đó, năng lực của khu vực doanh nghiệp trong nước, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa còn hạn chế. Năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp cũng là những thách thức không nhỏ đối với nền kinh tế. Dự báo kiểm soát lạm phát theo mục tiêu của Quốc hội đề ra cho năm 2020 là rất khó khăn, do tác động của nhiều yếu tố cả chủ quan và khách quan. Trên thế giới, nhiều nước tiếp tục thực hiện nới lỏng chính sách tiền tệ, tiếp tục giảm lãi suất cơ bản hoặc giữ ở mức rất thấp, thậm chí còn tung ra các gói kích thích kinh tế lớn... sẽ làm cho giá cả thế giới tăng lên. Ở trong nước, giá thực phẩm nói chung và giá thịt lợn nói riêng có khả năng tăng cao vào dịp tháng Một và tháng Hai, khi là thời điểm người lao động được nhận tiền thưởng cuối năm, mùa cưới hỏi, Tết nguyên đán, mùa lễ hội... Đặc biệt, vẫn còn tồn tại một số rào cản, hạn chế về thể chế kinh tế gây ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế trong từng ngành, từng lĩnh vực.
 

Động lực tăng trưởng kinh tế năm 2020
 

Bước sang năm 2020, kinh tế Việt Nam cần nhận diện những cơ hội cũng như những thách thức để có bước đi đúng trong tiến trình “về đích” của giai đoạn 2016-2020. Bên cạnh dự báo nền kinh tế thế giới tiếp tục tăng trưởng chậm trong năm 2020, các yếu tố rủi ro thách thức gia tăng, thương mại và chuỗi cung ứng bị gián đoạn, diễn biến khó lường của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung… Một số vấn đề nội tại của nền kinh tế chưa được giải quyết triệt để sẽ là lực cản đối với phát triển kinh tế nước ta. Để có thể hoàn thành các mục tiêu kế hoạch không chỉ của năm 2020 mà của cả giai đoạn 2016-2020 theo Nghị quyết Đại hội Đảng XII đã đề ra, Chính phủ, Bộ, ngành và các địa phương cần tháo gỡ những nút thắt, phát huy tối đa mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, trong đó tập trung vào 6 nhóm động lực có tính nền tảng cho tăng trưởng kinh tế năm 2020 và các năm tiếp theo với các nội dung chủ yếu sau đây:
 

Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế nhằm tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh an toàn, ít rủi ro, cho phép các doanh nghiệp tiếp cận cơ hội và nguồn lực, phát huy quyền sản xuất kinh doanh của các hộ gia đình, tạo lập môi trường cho người dân tự vươn lên, phát huy sức sáng tạo. Chính phủ và các địa phương cần tập trung rà soát, bổ sung và hoàn thiện thể chế, cắt giảm thực chất điều kiện kinh doanh đang là rào cản đối với hoạt động của doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh cá thể; đẩy mạnh cải cách hành chính, thực thi hiệu quả thủ tục một cửa, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp thành lập và phát triển gắn với thực hiện Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp. Cần có chính sách và giải pháp phù hợp để khuyến khích các cơ sở kinh doanh các thể chuyển thành doanh nghiệp, tạo dựng điều kiện kinh doanh thuận lợi cho cơ sở cá thể hoạt động ổn định lâu dài và tuân thủ pháp luật.
 

Hai là, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư của nền kinh tế. Tập trung thu hút vốn đầu tư của khu vực tư nhân nhiều hơn, mặt khác hoạt động đầu tư phải có trọng tâm, trọng điểm vào những ngành, lĩnh vực mang lại hiệu quả kinh tế cao, tránh đầu tư dàn trải, lãng phí. Hiệu quả đầu tư sẽ tăng lên đáng kể khi cơ cấu đầu tư tập trung vào một số ngành trọng điểm như thông tin và truyền thông; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm; hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ do những ngành này có hiệu suất đầu tư tốt, mang lại giá trị gia tăng cao hơn các nhóm ngành khác. Đồng thời chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng để nâng cao năng lực sản xuất, cạnh tranh của nền kinh tế.
 

Ba là, nâng cao năng suất lao động. Hiện nay trong nền kinh tế vẫn còn tới 19 triệu lao động làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, do đó trong năm 2020, cần khuyến khích và có giải pháp thu hút doanh nghiệp đầu tư vào khu vực nông nghiệp nông thôn để nâng cao năng suất lao động của khu vực nông nghiệp, đồng thời chuyển nhanh lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp, dịch vụ có năng suất lao động cao hơn. Cùng với chuyển dịch cơ cấu lao động, cần thực hiện các chính sách và giải pháp nhằm tăng năng suất nội ngành. Trong đó tập trung cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học, nhất là công nghệ sinh học, phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Tập trung phát triển sản phẩm có giá trị gia tăng cao, giá trị xuất khẩu lớn, sử dụng công nghệ cao, tự động hóa. Chuyển dịch trong nội bộ ngành công nghiệp từ sản xuất dựa vào lao động sang dựa vào công nghệ, hàng hóa có giá trị gia tăng cao, trong năm 2020 Việt Nam cần tập trung phát triển và nâng cao năng suất lao động của ngành sản xuất, chế biến thực phẩm; ngành dệt, sợi và may; ngành sản xuất kim loại và các sản phẩm từ kim loại; sản xuất máy móc, thiết bị. Tập trung nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý Nhà nước và quản trị doanh nghiệp.
 

Bốn là, tăng khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trong nước. Trong bối cảnh thương mại toàn cầu suy giảm, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam năm 2020 sẽ gặp nhiều khó khăn. Nhưng với quy mô dân số trên 96 triệu dân và số lượng khách quốc tế đến Việt Nam ngày càng tăng cao sẽ là thị trường tiềm năng tạo động lực cho khu vực sản xuất, dịch vụ và tăng trưởng năm 2020. Quan tâm khai thác đúng mức, thúc đẩy thị trường trong nước phát triển, đáp ứng nội nhu của nền kinh tế, có chính sách dần đưa hàng hóa Việt Nam thay thế hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài. Xúc tiến thương mại trên thị trường nội địa, nâng cao tính phù hợp và tiện ích của hệ thống bán lẻ, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa. Thực hiện hiệu quả chương trình “Hàng Việt Nam chinh phục người Việt Nam”. Đồng thời, thúc đẩy hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch để thu hút du khách. Tăng cường thúc đẩy liên kết giữa các nhà cung cấp dịch vụ, đặc biệt trong lĩnh vực du lịch; kết hợp giữa các doanh nghiệp vận tải với các cơ sở lưu trú, ăn uống. Phát triển du lịch tại các vùng có thế mạnh với các hình thức đa dạng và hấp dẫn.
 

Năm là, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế cần bãi bỏ, đơn giản hóa các quy định về điều kiện kinh doanh nhằm thích ứng với cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh doanh, tăng nhanh số lượng doanh nghiệp mới thành lập; giảm chi phí đầu vào, chi phí cơ hội, chi phí không chính thức cho doanh nghiệp và người dân; đưa môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh nước ta thuộc nhóm ASEAN 4. Đẩy mạnh thanh toán điện tử và cung cấp dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4.
 

Sáu là, đô thị hóa là quá trình tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế. Đô thị hóa vừa là mục tiêu phát triển, vừa là động lực trong thúc đẩy các ngành sản xuất hàng hóa tiêu dùng. Với 34,7% cư dân thành thị, trung bình mỗi người dân khu vực này chi tiêu cho đời sống cao hơn so với khu vực nông thôn, đây là động lực để các ngành sản xuất hàng hóa tiêu dùng phát triển. Cần thúc đẩy sự phát triển của các đô thị để tạo ra những cụm liên kết giữa sản xuất với phục vụ đời sống dân cư; thiết lập hệ thống hạ tầng hiện đại để giúp các doanh nghiệp cắt giảm chi phí thương mại, vận chuyển nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế; các ngành nghề gắn với phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. Lực lượng lao động ở khu vực đô thị dồi dào hơn và có chất lượng hơn so với khu vực nông thôn, đây là yếu tố quan trọng cho quá trình đô thị hóa nhằm đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực trẻ, chất lượng cao trong quá trình phát triển kinh tế tại các đô thị. Việt Nam cần có những chính sách đào tạo nâng cao kỹ năng chuyên môn và kỹ năng sống để thích ứng với môi trường sống đầy thách thức ở các đô thị, cũng như tạo việc làm cho lực lượng lao động trẻ này. Bên cạnh đó, phát triển đô thị phải gắn với đảm bảo hạ tầng giao thông và bảo vệ môi trường và là động lực để kéo theo sự phát triển của nông thôn./.


TS. Nguyễn Bích Lâm
                                                          Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê

Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top