Tình hình kinh tế - xã hội cả nước Quý I năm 2021 có nhiều khởi sắc

29/03/2021 - 11:39 AM
 
Kinh tế - xã hội ba tháng đầu năm 2021 của nước ta diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới có dấu hiệu phục hồi sau nỗ lực nghiên cứu và triển khai tiêm chủng vắc- xin phòng dịch Covid-19 ở nhiều nước trên thế giới. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB) và các tổ chức quốc tế khác đã đưa ra dự báo khả quan về triển vọng kinh tế toàn cầu. Các nền kinh tế lớn trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, EU dự báo đạt mức tăng trưởng khá nhờ nỗ lực tiêm vắc-xin và ban hành những gói cứu trợ nền kinh tế. Giá cả hàng hóa thế giới có xu hướng tăng, thị trường chứng khoán toàn cầu tăng mạnh. Trong nước, tiếp đà phục hồi và tăng trưởng tích cực từ quý IV năm 2020, kinh tế vĩ mô nước ta tiếp tục ổn định, thời tiết những tháng đầu năm tương đối thuận lợi, dịch tả lợn châu Phi được kiểm soát tốt là những điều kiện thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, dịch Covid-19 bùng phát ở một số tỉnh, thành phố cuối tháng Một đã đặt ra không ít thách thức trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội.

Trước những thuận lợi và khó khăn đan xen, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngay từ đầu năm đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ, linh hoạt, hiệu quả “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe nhân dân, vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2021. Kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực trong quý I năm nay như sau:

I. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2021 ước tính tăng 4,48% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng 3,68% của quý I/2020. Từ cuối tháng Một đến đầu tháng Ba, dịch Covid-19 diễn biến phức tạp tại một số địa phương, ảnh hưởng tiêu cực tới tình hình kinh tế - xã hội cả nước, kết quả tăng trưởng quý I cho thấy sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và sự nỗ lực của các cấp, các ngành, người dân và doanh nghiệp để tiếp tục thực hiện hiệu quả mục tiêu kép “vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế". Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,16%, đóng góp 8,34% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,3%, đóng góp 55,96%; khu vực dịch vụ tăng 3,34%, đóng góp 35,70%.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong quý I/2021 tăng cao so với cùng kỳ năm trước do năng suất lúa, sản lượng cây lâu năm đạt khá, dịch tả lợn châu Phi được kiểm soát tốt, sản lượng thịt hơi xuất chuồng tăng khá, đồng thời thị trường xuất khẩu các mặt hàng gỗ và lâm sản được mở rộng. Trong đó, ngành nông nghiệp tăng 3,19%, chỉ thấp hơn mức tăng của quý I các năm 2011 và 2018 trong giai đoạn 2011-2021, làm tăng 0,29 điểm phần trăm mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 3,78% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,02 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 2,90%, cao hơn mức tăng 2,79% của cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,07 điểm phần trăm.

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp quý I/2021 tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 5,1% của quý I/2020 nhưng thấp hơn nhiều so với mức tăng 10,45% của quý I/2018 và 9% của quý I/2019, đóng góp 2,2 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục đóng vai trò động lực dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế với mức tăng 9,45%, đóng góp 2,37 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng tăng trưởng âm 8,24%, làm giảm 0,36 điểm phần trăm mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế do sản lượng dầu thô khai thác giảm 11% và khí đốt tự nhiên giảm 16,1%. Ngành xây dựng tăng 5,17%, cao hơn mức tăng 4,37% của quý I/2020, đóng góp 0,32 điểm phần trăm.

Khu vực dịch vụ trong quý I/2021 tăng trưởng tích cực khi dịch Covid-19 được kiểm soát chặt chẽ, doanh nghiệp xuất khẩu đã tận dụng tốt các Hiệp định thương mại tự do được ký kết. Đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của quý I như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 6,45% so với cùng kỳ năm trước, là ngành dịch vụ có đóng góp lớn nhất vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế (0,67 điểm phần trăm); hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,35%, đóng góp 0,4 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi giảm 2,17%, làm giảm 0,15 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 4,49%, làm giảm 0,12 điểm phần trăm.

Về cơ cấu nền kinh tế quý I/2021, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,71%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 36,45%; khu vực dịch vụ chiếm 42,20%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,64% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2020 là 11,66%; 35,86%; 42,82%; 9,66%).

Trên góc độ sử dụng GDP quý I/2021, tiêu dùng cuối cùng tăng 4,59% so với cùng kỳ năm 2020; tích lũy tài sản tăng 4,08%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 17,01%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 16,38%.

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản quý I/2021 diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi: rét đậm, rét hại, hạn hán và xâm nhập mặn không diễn ra gay gắt như cùng kỳ năm trước. Năng suất lúa và sản lượng cây lâu năm đạt khá; đàn lợn tiếp tục đà hồi phục. Sản xuất lâm nghiệp phát triển, thị trường xuất khẩu các mặt hàng gỗ và lâm sản được mở rộng. Sản xuất thủy sản khả quan hơn so với cùng kỳ năm trước, giá cá tra và tôm thương phẩm có xu hướng tăng.

a) Nông nghiệp

Tính đến trung tuần tháng Ba, cả nước gieo trồng được 2.973,4 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 99,4% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc đạt 1.056,4 nghìn ha, bằng 99%; các địa phương phía Nam đạt 1.917 nghìn ha, bằng 99,6%, riêng vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.518,1 nghìn ha, bằng 98,2%. Tại các địa phương phía Bắc, thời tiết nắng ấm cùng với nguồn nước tưới được cung ứng hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho việc gieo trồng lúa. Nhiều địa phương đã hoàn thành chăm sóc lúa đợt 1 và đang tiến hành giai đoạn chăm sóc lúa đợt 2. Hiện nay, cây lúa đang trong giai đoạn đẻ nhánh, sinh trưởng và phát triển tốt. Tuy nhiên, dự báo tổng lượng mưa 6 tháng đầu năm 2021 có xu hướng thấp hơn hoặc xấp xỉ trung bình nhiều năm nên khả năng mực nước trên các sông lớn trong thời gian tới thấp và thiếu hụt. Vì vậy, ngành Nông nghiệp các địa phương cần có phương án đảm bảo nguồn nước tưới cho lúa sinh trưởng và phát triển tốt giành thắng lợi vụ đông xuân năm nay.

Tại các địa phương phía Nam, diện tích gieo trồng lúa đông xuân giảm so với cùng kỳ do ảnh hưởng của hạn mặn nên một phần diện tích trồng lúa đã chuyển sang trồng rau màu và cây ăn quả cho giá trị kinh tế cao hơn hoặc chuyển sang nuôi trồng thủy sản. Diện tích lúa giảm khoảng 28,3 nghìn ha, tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, trong đó một số địa phương có diện tích giảm nhiều là: Sóc Trăng giảm 9,8 nghìn ha; Tiền Giang giảm 6 nghìn ha; Kiên Giang giảm 5,4 nghìn ha. Đến nay, vùng Đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch được 731,3 nghìn ha, chiếm 48,2% diện tích gieo cấy và bằng 62,5% cùng kỳ năm trước. Do tình trạng xâm nhập mặn năm nay thấp hơn năm trước, cùng với đó, các địa phương đã chủ động chuẩn bị đầy đủ giống, phân bón, vật tư nông nghiệp, lúa được gieo trồng đúng trong khung thời vụ tốt và tình hình sâu bệnh, dịch hại được kiểm soát nên ước tính năng suất gieo trồng lúa đông xuân vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt cao với 70,2 tạ/ha, tăng 1,9 tạ/ha so với năm trước; sản lượng ước tính đạt 10,66 triệu tấn, tăng hơn 85 nghìn tấn.

Đến trung tuần tháng Ba, vùng đồng bằng sông Cửu Long đã hoàn tất công tác thu hoạch lúa vụ mùa 2020-2021. Diện tích gieo trồng lúa mùa của toàn vùng ước tính đạt 150,7 nghìn ha, bằng 89,1% vụ mùa năm trước. Do hơn 16 nghìn ha lúa mùa tại Cà Mau và Kiên Giang bị mất trắng nên toàn vùng chỉ thu hoạch được 134,7 nghìn ha, bằng 86,3% so với diện tích thu hoạch năm 2020. Với việc chủ động xuống giống theo lịch khuyến cáo của ngành nông nghiệp và sử dụng các giống lúa xác nhận, phù hợp với thổ nhưỡng từng vùng, có khả năng chịu được phèn, mặn cao nên năng suất thu hoạch đạt khá ở mức 49,4 tạ/ha, tăng 0,7 tạ/ha so với năng suất vụ mùa năm trước nhưng vì diện tích giảm sâu nên sản lượng đạt 665,2 nghìn tấn, giảm 95,1 nghìn tấn.

Tính đến giữa tháng Ba, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 333 nghìn ha ngô, bằng 100,7% cùng kỳ năm trước; 54,1 nghìn ha khoai lang, bằng 93,9%; 11,9 nghìn ha đậu tương, bằng 88,8%; 107,3 nghìn ha lạc, bằng 97%; 558,8 nghìn ha rau đậu, bằng 100,1%.

Trong quý I/2021, một số cây công nghiệp lâu năm đã cho thu hoạch, trong đó: Sản lượng điều đạt 193,1 nghìn tấn, giảm 0,7% so với cùng kỳ năm trước; hồ tiêu đạt 200 nghìn tấn, giảm 0,5%; cao su đạt 119 nghìn tấn, tăng 1,6%, chè búp đạt 154,9 nghìn tấn, tăng 1,9%. Sản lượng một số loại cây ăn quả tăng: Bưởi đạt 143,3 nghìn tấn, tăng 2,4%; thanh long đạt 326,3 nghìn tấn, tăng 4,3%; xoài đạt 236,7 nghìn tấn, tăng 1,3%; dứa đạt 134,3 nghìn tấn, tăng 7%; chuối đạt 653,4 nghìn tấn, tăng 2,5%.

Chăn nuôi trâu, bò trong quý I bị ảnh hưởng bởi rét đậm, rét hại, băng giá, mưa tuyết trong tháng Một và hiện nay đang xuất hiện dịch viêm da nổi cục tại một số địa phương, người chăn nuôi và chính quyền địa phương cần tăng cường các biện pháp kiểm soát, phòng chống dịch bệnh. Ước tính tổng số bò tính đến thời điểm cuối tháng Ba tăng 4,4% so với cùng thời điểm năm 2020, tổng số trâu giảm 2,3%. Ước tính quý I, sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng đạt 32,2 nghìn tấn, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm 2020; sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng đạt 120,7 nghìn tấn, tăng 4,8%; sản lượng sữa bò tươi đạt 270,1 nghìn tấn, tăng 5,1%.

Chăn nuôi lợn tiếp tục đà hồi phục trên cả nước, dịch tả lợn châu Phi được kiểm soát, chỉ còn phát sinh những ổ dịch nhỏ lẻ. Ước tính tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Ba năm 2021 tăng 11,6% so với cùng thời điểm năm 2020; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng quý I ước tính đạt 1.018,8 nghìn tấn, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước. Chăn nuôi gia cầm tiếp tục phát triển do hộ chăn nuôi mở rộng quy mô, khu vực doanh nghiệp phát triển tốt. Tuy nhiên, dịch cúm gia cầm vẫn xảy ra rải rác tại một số địa phương, người chăn nuôi cần có các biện pháp phòng và xử lý dịch hiệu quả để giảm nguy cơ bùng phát dịch ở diện rộng; theo dõi sát tình hình thị trường không nên tăng đàn ồ ạt dẫn tới tình trạng dư thừa nguồn cung, giá bán giảm sâu gây thua lỗ. Ước tính tổng đàn gia cầm của cả nước tháng Ba tăng 8,3% so với cùng thời điểm năm 2020; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng quý I/2021 đạt 513,6 nghìn tấn, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng trứng gia cầm quý I đạt 4,5 tỷ quả, tăng 3,5%.

Tính đến ngày 25/3/2021, cả nước không còn dịch tai xanh; dịch cúm gia cầm còn ở Hà Nội, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Thái Nguyên, Hà Tĩnh, Quảng Nam; dịch lở mồm long móng còn ở Bắc Kạn, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Ngãi, Phú Yên, Kon Tum, Đắk Lắk và dịch tả lợn châu Phi còn ở 19 địa phương chưa qua 21 ngày. Đáng chú ý là dịch viêm da nổi cục trên trâu bò đã phát sinh tại 17 địa phương chưa qua 21 ngày.

b) Lâm nghiệp

Tháng 3 năm 2021, các địa phương phía Bắc đẩy mạnh công tác trồng rừng và chăm sóc rừng, phía Nam tập trung chăm lo, bảo vệ rừng và tăng cường phòng cháy, chữa cháy. Trong tháng Ba, diện tích rừng trồng mới tập trung của cả nước ước đạt 17,2 nghìn ha, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 15,7 triệu cây, bằng cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác đạt 1.149,2 nghìn m3, tăng 4,9%; sản lượng củi khai thác đạt 1,8 triệu ste, tăng 1,1%. Ước tính quý I/2021, diện tích rừng trồng mới tập trung của cả nước đạt 33,2 nghìn ha, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 26,4 triệu cây, tăng 1,9%; sản lượng gỗ khai thác đạt gần 3 triệu m3, tăng 4%; sản lượng củi khai thác đạt gần 4,5 triệu ste, giảm 0,2%.

Diện tích rừng bị thiệt hại trong tháng Ba là 94,2 ha, giảm 46,8% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu do diện tích rừng bị cháy giảm 70,4% (cùng kỳ năm 2020 là 69 ha); diện tích rừng bị chặt phá là 73,7 ha, giảm 31,7%. Tính chung quý I/2021, diện tích rừng bị thiệt hại là 357 ha, giảm 3,8% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm diện tích rừng bị cháy là 115 ha, giảm 28,6%; diện tích rừng bị chặt phá là 242 ha, tăng 15,2%.

c) Thủy sản

Sản lượng thủy sản tháng Ba ước đạt 683,9 nghìn tấn, tăng 3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 485,9 nghìn tấn, tăng 1,3%; tôm đạt 69,8 nghìn tấn, tăng 8,1%; thủy sản khác đạt 128,2 nghìn tấn, tăng 7,4%. Quý I/2021, sản lượng thủy sản ước đạt 1825,3 nghìn tấn, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 1360,1 nghìn tấn, tăng 1,1%; tôm đạt 170,8 nghìn tấn, tăng 5,8%; thủy sản khác đạt 294,4 nghìn tấn, tăng 4,7%.

Tháng 3 năm 2021, sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 339,8 nghìn tấn, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 238,8 nghìn tấn, tăng 2,4%; tôm đạt 57,9 nghìn tấn, tăng 9%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng quý I/2021 ước đạt 940,3 nghìn tấn, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 685,3 nghìn tấn, tăng 1,9%; tôm đạt 138,3 nghìn tấn, tăng 6,6%. Giá cá tra thương phẩm có xu hướng tăng; giá cá tra giống loại 30 con/kg tăng mạnh nên người nuôi vẫn dè chừng. Ước tính quý I/2021, sản lượng cá tra đạt 321,8 nghìn tấn, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó An Giang đạt 105 nghìn tấn, tăng 2,9%; Cần Thơ đạt 33,2 nghìn tấn, tăng 0,3%. Giá tôm thẻ chân trắng thời điểm trung tuần tháng Ba so với thời điểm đầu tháng Một tăng ở các kích cỡ từ 20-50 con/kg, giảm nhẹ ở các kích cỡ từ 60-130 con/kg. Mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh và hai giai đoạn vẫn đang phát triển. Giá tôm sú không biến động so với đầu năm và tăng so với trung tuần tháng Ba năm ngoái. Một số diện tích nuôi tôm sú kém hiệu quả đã chuyển sang nuôi tôm thẻ chân trắng. Tính chung quý I/2021, sản lượng tôm sú ước đạt 47,1 nghìn tấn, tăng 0,3% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng tôm thẻ chân trắng đạt 77,7 nghìn tấn, tăng 8,6%.

Sản lượng thủy sản khai thác tháng Ba ước đạt 344,1 nghìn tấn, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 247,1 nghìn tấn, tăng 0,2%; tôm đạt 11,9 nghìn tấn, tăng 3,5%. Sản lượng thủy sản khai thác biển ước đạt 332,4 nghìn tấn, tăng 2%.

Ước tính quý I/2021, sản lượng thủy sản khai thác đạt 885 nghìn tấn, tăng 1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 674,8 nghìn tấn, tăng 0,3%; tôm đạt 32,5 nghìn tấn, tăng 2,5%. Thời tiết ngư trường hai tháng đầu năm tương đối thuận lợi, sản lượng thủy sản khai thác biển trong Quý ước đạt 845,1 nghìn tấn, tăng 1,1%.

3. Sản xuất công nghiệp

Ngành công nghiệp quý I/2021 đạt mức tăng khá 6,5% so với cùng kỳ năm trước; trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,45%, cao hơn tốc độ tăng 7,12% của cùng kỳ năm trước nhưng thấp hơn tốc độ tăng 14,30% của quý I/2018 và 11,52% của quý I/2019; sản xuất và phân phối điện tăng trưởng ổn định; ngành khai khoáng giảm sâu chủ yếu do khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm mạnh.

Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp quý I/2021 ước tính tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,45%, đóng góp 2,37 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 4,5%, đóng góp 0,17 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,78%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 8,24% do khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm mạnh, làm giảm 0,36 điểm phần trăm mức tăng chung.

Theo công dụng sản phẩm công nghiệp, chỉ số sản xuất sản phẩm trung gian (phục vụ cho quá trình sản xuất) quý I/2021 tăng 8% so với năm trước; sản phẩm phục vụ cho sử dụng cuối cùng tăng 3,8% (trong đó sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng của dân cư tăng 0,9%).

Chỉ số sản xuất quý I/2021 một số ngành trọng điểm thuộc các ngành công nghiệp cấp II tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất kim loại tăng 30,9%; sản xuất đồ uống tăng 16,9%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải, tái chế phế liệu tăng 15,5%; sản xuất thiết bị điện và khai thác quặng kim loại cùng tăng 12,5%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 12,3%; sản xuất xe có động cơ tăng 11,2%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị tăng 10,8%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 10,6%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 9,4%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 7,9%. Ở chiều ngược lại, một số ngành có chỉ số giảm: Khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 13,7%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 11,9%; hoạt động dịch vụ hỗ trợ khai thác mỏ và quặng giảm 9,8%; thoát nước và xử lý nước thải giảm 5,6%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa giảm 3,5%; sản xuất mô tô, xe máy giảm 2%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế giảm 1,8%; khai thác than cứng và than non giảm 0,1%.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực quý I/2021 tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Thép cán tăng 54%; linh kiện điện thoại tăng 47,9%; ti vi các loại tăng 30,9%; ô tô tăng 17,7%; sữa bột tăng 17,5%; sơn hóa học tăng 15,5%; sắt, thép thô tăng 14,4%; bia các loại tăng 12,1%; phân hỗn hợp NPK tăng 10,8%; khí hóa lỏng LPG tăng 9,1%; thức ăn cho gia súc tăng 6,7%. Một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước: Khí đốt thiên nhiên giảm 16,1%; bột ngọt giảm 11,9%; dầu mỏ thô khai thác giảm 11%; đường kính giảm 3,9%; xăng, dầu các loại giảm 2,4%; xe máy và thép thanh, thép góc cùng giảm 1,6%; giày, dép da giảm 1,3%; than sạch giảm 0,1%.

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 3/2021 tăng 24,1% so với tháng trước và tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2021, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước (quý I/2020 tăng 2,8%), trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Sản xuất kim loại tăng 28,5%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 18,7%; sản xuất đồ uống tăng 17,8%; sản xuất thiết bị điện tăng 12,2%; sản xuất xe có động cơ tăng 11,4%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 10,8%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 8%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm: In, sao chép bản ghi các loại giảm 16,6%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm 13,5%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế giảm 13,3%; dệt giảm 1,8%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 0,2%.

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/3/2021 tăng 22,5% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm 2020 tăng 24,9%), trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm: Sản xuất đồ uống tăng 13,9%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 9,8%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 0,7%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 13%; sản xuất xe có động cơ giảm 24,5%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng thời điểm năm trước: Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 91,6%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 85,7%; sản xuất kim loại tăng 68,1%; in, sao chép bản ghi các loại tăng 54%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) và sản xuất giường, tủ, bàn ghế cùng tăng 40,9%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 31,5%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 29,2%.

Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân quý I/2021 đạt 75,1% (cùng kỳ năm trước là 78,4%), trong đó một số ngành có tỷ lệ tồn kho cao: Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa 127,5%; dệt 121,9%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) 113,7%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất 109,8%.

Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/3/2021 tăng 1,6% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 0,4% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 0,2% và giảm 1,9%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 1,2% và giảm 1,5%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 2% và tăng 0,4%. Theo ngành hoạt động, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng tăng 0,5% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 1,1% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 1,7% và giảm 0,3%; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước, điều hòa không khí không đổi và tăng 0,9%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,1% và giảm 1,7%.

4. Hoạt động của doanh nghiệp

Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong 3 tháng đầu năm 2021 giảm 1,4% so với cùng kỳ năm trước nhưng có vốn đăng ký tăng 27,5%, nguyên nhân do gia tăng số lượng doanh nghiệp có vốn đăng ký trên 100 tỷ đồng (tăng 36,8%) và giảm số lượng doanh nghiệp có vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng (giảm 3,3%). Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn tăng 28,2% so với cùng kỳ năm 2020; doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể tăng 26,4%, đây  phần lớn là doanh nghiệp trẻ, quy mô nhỏ, dễ chịu tổn thương do tác động tiêu cực từ bên ngoài. Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cho thấy các doanh nghiệp kỳ vọng sản xuất kinh doanh trong quý II/2021 khả quan hơn quý I/2021.

a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp

Trong tháng 3/2021, cả nước có 11.171 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 113 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký 72,8 nghìn người, tăng 39% về số doanh nghiệp, giảm 37,1% về vốn đăng ký và tăng 27,8% về số lao động so với tháng 02/2021. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong tháng đạt 10,1 tỷ đồng, giảm 54,8% so với tháng trước và giảm 5,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng, cả nước còn có 4.529 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 1,6% so với tháng trước và tăng 32,3% so với cùng kỳ năm trước; 2.213 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, giảm 38,4% và giảm 9,7%; 3.458 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 32,7% và tăng 24,2%; 1.608 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 7,2% và tăng 22,2%.

Tính chung 3 tháng đầu năm 2021, cả nước có 29,3 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 447,8 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 245,6 nghìn lao động, giảm 1,4% về số doanh nghiệp, tăng 27,5% về vốn đăng ký và tăng 0,8% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 3 tháng đạt 15,3 tỷ đồng, tăng 29,2% so với cùng kỳ năm trước. Nếu tính cả 525,3 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 9,6 nghìn doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 3 tháng đầu năm 2021 là 973,1 nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, còn có 14,7 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 0,5% so với cùng kỳ năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 3 tháng đầu năm 2021 lên 44 nghìn doanh nghiệp, trung bình mỗi tháng có gần 14,7 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.

Theo khu vực kinh tế, trong 3 tháng đầu năm nay có 472 doanh nghiệp thành lập mới thuộc khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm 2020; 8,1 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực công nghiệp và xây dựng, tăng 0,4%; 20,7 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực dịch vụ, giảm 2,3%. Một số lĩnh vực hoạt động có số doanh nghiệp thành lập mới tăng: Kinh doanh bất động sản tăng 27,1% so với cùng kỳ năm trước; sản xuất phân phối điện, nước, gas tăng 16,4%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 12%; khai khoáng tăng 7%; vận tải kho bãi tăng 6%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,4%; giáo dục và đào tạo tăng 0,1%. Có 8 lĩnh vực có số doanh nghiệp thành lập mới giảm so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Dịch vụ lưu trú ăn uống giảm 18%; dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác giảm 13,5%; thông tin và truyền thông giảm 11,8%; khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn, thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác giảm 6,5%; nghệ thuật, vui chơi giải trí giảm 4,1%; tài chính, ngân hàng và bảo hiểm giảm 3,5%; xây dựng giảm 3,1%; bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy giảm 1,9%.

Cũng trong 3 tháng đầu năm nay, có 40,3 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm 2020, bao gồm: 23,8 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 28,2% so với cùng kỳ năm trước; 11,3 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 7,3%; 5,2 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 26,4%, trong đó có 4,7 nghìn doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, tăng 27,6%; 49 doanh nghiệp có vốn trên 100 tỷ đồng, giảm 21%. Doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực: Bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy có 1.946 doanh nghiệp; công nghiệp chế biến, chế tạo có 616 doanh nghiệp; xây dựng có 462 doanh nghiệp; khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác có 318 doanh nghiệp; dịch vụ lưu trú và ăn uống có 289 doanh nghiệp; dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng, các dịch vụ hỗ trợ khác có 254 doanh nghiệp; vận tải, kho bãi có 247 doanh nghiệp; kinh doanh bất động sản có 243 doanh nghiệp; giáo dục, đào tạo có 181 doanh nghiệp; thông tin truyền thông có 164 doanh nghiệp; sản xuất phân phối điện, nước, gas 108 doanh nghiệp. Trung bình mỗi tháng có 13,4 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp

Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý I/2021 cho thấy: Có 29,6% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý I/2021 tốt hơn quý IV/2020; 31,4% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn và 39% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định. Dự kiến quý II/2021 so với quý I/2021, có 51% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 14,9% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn và 34,1% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định. Trong đó, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lạc quan nhất với 86,2% số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất kinh doanh quý II/2021 tốt hơn và giữ ổn định so với quý I/2021; tỷ lệ này ở khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước lần lượt là 84,8% và 83,4%.

Trong các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I/2021, có 55,1% số doanh nghiệp cho rằng khả năng cạnh tranh cao của hàng hóa trong nước là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; 49,5% số doanh nghiệp cho rằng do nhu cầu thị trường trong nước thấp; 33,1% số doanh nghiệp cho rằng gặp khó khăn về tài chính; 27,1% số doanh nghiệp cho rằng thiếu nguyên, nhiên, vật liệu; 27% số doanh nghiệp cho rằng không tuyển được lao động theo yêu cầu; 26,6% số doanh nghiệp cho rằng nhu cầu thị trường quốc tế thấp; 23,9% số doanh nghiệp cho rằng lãi suất vay vốn cao; 21,3% số doanh nghiệp cho rằng tính cạnh tranh của hàng nhập khẩu cao; 21,2% số doanh nghiệp cho rằng thiết bị công nghệ lạc hậu.

Về khối lượng sản xuất, có 31% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất của doanh nghiệp quý I/2021 tăng so với quý IV/2020; 32% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất giảm và 37% số doanh nghiệp cho rằng ổn định. Xu hướng quý II/2021 so với quý I/2021, có 52% số doanh nghiệp dự báo khối lượng sản xuất tăng; 13,2% số doanh nghiệp dự báo giảm và 34,8% số doanh nghiệp dự báo ổn định.

Về đơn đặt hàng, có 27,8% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng quý I/2021 cao hơn quý IV/2020; 30,5% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng giảm và 41,7% số doanh nghiệp có số đơn đặt hàng ổn định. Xu hướng quý II/2021 so với quý I/2021, có 47,5% số doanh nghiệp dự kiến có đơn hàng tăng lên; 13,4% số doanh nghiệp dự kiến đơn hàng giảm và 39,1% số doanh nghiệp dự kiến có đơn hàng ổn định.

Về đơn đặt hàng xuất khẩu, quý I/2021 so với quý IV/2020, có 25,3% số doanh nghiệp khẳng định số đơn hàng xuất khẩu mới cao hơn; 29,4% số doanh nghiệp có đơn hàng xuất khẩu mới giảm và 45,3% số doanh nghiệp có đơn hàng xuất khẩu mới ổn định. Xu hướng quý II/2021 so với quý I/2021, có 37,5% số doanh nghiệp dự kiến tăng đơn hàng xuất khẩu mới; 15% số doanh nghiệp dự kiến giảm và 47,5% số doanh nghiệp dự kiến ổn định.

5. Hoạt động dịch vụ

a) Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Hoạt động thương mại và dịch vụ tiêu dùng tháng Ba có xu hướng phục hồi khi dịch Covid-19 được kiểm soát. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 3/2021 tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 giảm 5,4%) cho thấy cầu tiêu dùng của người dân đã tăng trở lại. Tính chung quý I/2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Ba ước tính đạt 405,1 nghìn tỷ đồng, giảm 3,8% so với tháng trước và tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 322,8 nghìn tỷ đồng, giảm 5,9% và tăng 8,5%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 40,2 nghìn tỷ đồng, tăng 9,1% và tăng 13,6%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 845 tỷ đồng, tăng 17,9% và giảm 34,6%; doanh thu dịch vụ khác đạt 41,3 nghìn tỷ đồng, tăng 1,4% và tăng 11,4%.

Tính chung quý I/2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 1.291,1 nghìn tỷ đồng, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 4,42% (cùng kỳ năm 2020 giảm 0,01%).

Doanh thu bán lẻ hàng hóa quý I năm nay ước tính đạt 1.033,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 80,1% tổng mức và tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, lương thực, thực phẩm tăng 9,5%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 5,8%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 5,3%; may mặc tăng 4,5%; phương tiện đi lại tăng 1,4%. Doanh thu bán lẻ hàng hóa quý I so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương: Hải Phòng tăng 11,3%; Cần Thơ tăng 10,8%; Hà Nội tăng 8%; Đà Nẵng tăng 7,9%; Thanh Hóa tăng 6,7%; Quảng Nam và Quảng Ngãi cùng tăng 6,6%; Đồng Nai 5,7%; Đắk Lắk tăng 5,5%; Hưng Yên tăng 5,3%; Bắc Ninh tăng 1,8%.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống quý I/2021 ước tính đạt 124 nghìn tỷ đồng, chiếm 9,6% tổng mức và giảm 3% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 giảm 8,5%). Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống quý I năm nay so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương: Bà Rịa - Vũng Tàu tăng 1,1%; Quảng Ninh giảm 12,7%; Hà Nội giảm 8%; Lâm Đồng giảm 7,2%; Đà Nẵng giảm 6%; Hải Phòng giảm 3,9%; thành phố Hồ Chí Minh giảm 3,5%; Kiên Giang giảm 1%.

Doanh thu du lịch lữ hành quý I ước tính đạt 3,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,2% tổng mức và giảm 60,1% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 giảm 24,8%). Một số địa phương có doanh thu du lịch lữ hành quý I giảm so với cùng kỳ năm trước: Đà Nẵng giảm 61,3%; thành phố Hồ Chí Minh giảm 59,5%; Hà Nội giảm 30,1%; Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 23,1%; Hải Phòng giảm 20,5%; Cần Thơ giảm 16,8%; Quảng Ninh giảm 4,5%.

Doanh thu dịch vụ khác quý I/2021 ước tính đạt 130,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,1% tổng mức và tăng 3,9% so với cùng kỳ năm 2020, trong đó doanh thu của Hải Phòng tăng 16,4%; Quảng Ninh tăng 15,1%; Cần Thơ tăng 7,7%; Đà Nẵng tăng 4,8%; Hà Nội tăng 2,5%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 0,9%; Lào Cai giảm 10,5%; Gia Lai giảm 28,5%.

b) Vận tải và viễn thông

Trong tháng 3/2021, vận tải hành khách vẫn gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, người dân hạn chế đi lại nên lượng hành khách vận chuyển giảm 1,5% và hành khách luân chuyển giảm 5,8% so với tháng trước, trong khi vận tải hàng hóa có dấu hiệu tích cực hơn với mức tăng 5,3% lượng hàng hóa vận chuyển và tăng 7,7% lượng hàng hóa luân chuyển. Tính chung quý I/2021, vận chuyển hành khách giảm 11,8% so với cùng kỳ năm trước, luân chuyển hành khách giảm 20,9% và vận chuyển hàng hóa tăng 10,2%, luân chuyển hàng hóa tăng 4,4%.

Vận tải hành khách tháng Ba ước tính đạt 323,8 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 1,5% so với tháng trước và luân chuyển 12,9 tỷ lượt khách.km, giảm 5,8%. Tính chung quý I/2021, vận tải hành khách đạt 1.012,3 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 11,8% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 giảm 6,1%) và luân chuyển 42,2 tỷ lượt khách.km, giảm 20,9% (cùng kỳ năm trước giảm 8%), trong đó vận tải trong nước đạt gần 1.012,3 triệu lượt khách, giảm 11,6% và 41,8 tỷ lượt khách.km, giảm 5,1%; vận tải ngoài nước đạt 84,1 nghìn lượt khách, giảm 96,9% và 351,8 triệu lượt khách.km, giảm 96,2%. Xét theo ngành vận tải, hầu hết các ngành đường đều bị ảnh hưởng do nhu cầu đi lại của người dân giảm trong giai đoạn dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp, vận tải hành khách đường bộ quý I đạt 939,7 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 12,5% so với cùng kỳ năm trước và 35,3 tỷ lượt khách.km luân chuyển, giảm 4,3%; đường biển đạt 1,7 triệu lượt khách, giảm 8,5% và 106,2 triệu lượt khách.km, giảm 1%; đường sắt đạt 593,4 nghìn lượt khách, giảm 55,7% và 313,3 triệu lượt khách.km, giảm 50,9%; hàng không tiếp tục bị ảnh hưởng nặng nề do dịch Covid-19 với số lượng hành khách vận chuyển quý I năm nay chỉ đạt 5,8 triệu lượt khách, giảm 45,2% và luân chuyển 5,3 tỷ lượt khách.km, giảm 63,9%. Riêng đường thủy nội địa đạt 64,6 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 7,9% và luân chuyển đạt 1,2 tỷ lượt khách.km, tăng 9,1%.

Vận tải hàng hóa tháng Ba ước tính đạt 153,6 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 5,3% so với tháng trước và luân chuyển 28,2 tỷ tấn.km, tăng 7,7%. Tính chung quý I/2021, vận tải hàng hóa đạt 472,6 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 tăng 1,1%)luân chuyển 86,1 tỷ tấn.km, tăng 4,4% (cùng kỳ năm trước tăng 0,1%), trong đó vận tải trong nước đạt 464,8 triệu tấn, tăng 10,6% và 53 tỷ tấn.km, tăng 20,4%; vận tải ngoài nước đạt 7,8 triệu tấn, giảm 8,8% và 33,1 tỷ tấn.km, giảm 13,9%. Xét theo ngành vận tải, chỉ riêng vận tải hàng không quý I vẫn giảm mạnh còn lại các ngành khác đều tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó vận tải hàng hóa đường bộ đạt 374,2 triệu tấn vận chuyển, tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước và 26,5 tỷ tấn.km luân chuyển, tăng 13,5%; đường thủy nội địa đạt 77,3 triệu tấn, tăng 7% và 17,1 tỷ tấn.km, tăng 9%; đường biển đạt 19,7 triệu tấn, tăng 1,5% và 41,1 tỷ tấn.km, tăng 0,1%; đường sắt đạt 1,4 triệu tấn, tăng 18,9% và 865,5 triệu tấn.km, tăng 3,5%; đường hàng không chỉ đạt 51,1 nghìn tấn, giảm 42,6% và 529,5 triệu tấn.km, giảm 65,5%.

Hoạt động viễn thông quý I/2021 nhìn chung ổn định, các doanh nghiệp viễn thông tiếp tục đẩy mạnh cung cấp các giải pháp, nền tảng, dịch vụ và sản phẩm chuyển đổi số. Doanh thu hoạt động viễn thông quý I ước tính đạt 78,9 nghìn tỷ đồng, giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 2,6%) do các doanh nghiệp viễn thông tiếp tục thực hiện các chương trình ưu đãi, khuyến mãi, hỗ trợ khách hàng trong giai đoạn dịch Covid-19. Tổng số thuê bao điện thoại tại thời điểm cuối tháng 3/2021 ước tính đạt 128,1 triệu thuê bao, tăng 0,3% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó số thuê bao di động là 125 triệu thuê bao, tăng 0,7%. Số thuê bao truy nhập internet băng rộng cố định tại thời điểm cuối tháng Ba ước tính đạt 17,2 triệu thuê bao, tăng 12,1% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó thuê bao truy nhập qua hệ thống cáp quang (FTTH) và qua hệ thống cáp truyền hình (CATV) vẫn tăng nhanh, thuê bao truy nhập qua hình thức xDSL tiếp tục giảm.

c) Khách quốc tế đến Việt Nam

Khách quốc tế đến nước ta tháng 3/2021 đạt 19,4 nghìn lượt người, tăng 77,3% so với tháng trước nhưng vẫn giảm 95,7% so với cùng kỳ năm trước do Việt Nam tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, chưa mở cửa du lịch quốc tế nên lượng khách đến chủ yếu là chuyên gia, lao động kỹ thuật nước ngoài làm việc tại các dự án ở Việt Nam và lái xe vận chuyển hàng hóa tại các cửa khẩu đường bộ. Tính chung quý I/2021, khách quốc tế đến nước ta đạt 48,1 nghìn lượt người, giảm 98,7% so với cùng kỳ năm trước.

Khách quốc tế đến nước ta trong tháng 3/2021 ước tính đạt 19,4 nghìn lượt người, tăng 77,3% so với tháng trước và giảm 95,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó riêng khách đến từ Trung Quốc và Hàn Quốc chiếm gần 67% lượng khách đến trong tháng. Tính chung quý I/2021, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 48,1 nghìn lượt người, giảm 98,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng đường hàng không đạt 31 nghìn lượt người, chiếm 64,5% lượng khách quốc tế đến Việt Nam, giảm 99%; bằng đường bộ đạt 16,9 nghìn lượt người, chiếm 35,2% và giảm 96,9%; bằng đường biển đạt 129 lượt người, chiếm 0,3% và giảm 99,9%.

Trong quý I năm nay, khách đến từ châu Á đạt 42,6 nghìn lượt người, chiếm 88,6% tổng số khách quốc tế đến nước ta, giảm 98,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khách đến từ các thị trường chính đều giảm mạnh: Trung Quốc đạt gần 19 nghìn lượt người, giảm 97,8% so với cùng kỳ năm trước; Hàn Quốc 10,9 nghìn lượt người, giảm 98,7%; Đài Loan 3,6 nghìn lượt người, giảm 98,1%; Lào 3,1 nghìn lượt người, giảm 91,5%; Nhật Bản 2,3 nghìn lượt người, giảm 98,8%. Khách đến từ châu Âu trong quý I ước tính đạt 3,6 nghìn lượt người, giảm 99,5% so với cùng kỳ năm trước; khách đến từ châu Mỹ đạt gần 1,3 nghìn lượt người, giảm 99,5%; khách đến từ châu Úc đạt 325 lượt người, giảm 99,7%; khách đến từ châu Phi đạt 303 lượt người, giảm 97,5%.

II. ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, KIỂM SOÁT LẠM PHÁT

1. Hoạt động ngân hàng, bảo hiểm, thị trường chứng khoán

Dịch Covid-19 được kiểm soát, hoạt động sản xuất kinh doanh trở lại trạng thái bình thường làm nhu cầu tín dụng của nền kinh tế tăng; thị trường bảo hiểm duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định; thị trường chứng khoán tăng trưởng khá với tổng mức huy động vốn cho nền kinh tế quý I/2021 tăng 42% so với cùng kỳ năm trước.

Tính đến thời điểm 19/3/2021, tổng phương tiện thanh toán tăng 1,49% so với cuối năm 2020 (cùng thời điểm năm trước tăng 1,55%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 0,54% (cùng thời điểm năm 2020 tăng 0,51%); tín dụng của nền kinh tế tăng 1,47% (cùng thời điểm năm 2020 tăng 0,68%).

Hiện nay, mặt bằng lãi suất tương đối ổn định so với cuối năm 2020. Lãi suất tiền gửi bằng đồng Việt Nam phổ biến ở mức 0,1%-0,2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 3,1%-3,8%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 4,0%-6,0%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở mức 5,6%-6,8%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng đồng Việt Nam đối với một số ngành, lĩnh vực ở mức 4,5%/năm. Tỷ giá trung tâm được điều hành linh hoạt bám sát diễn biến thị trường ngoại tệ và mục tiêu của chính sách tiền tệ, tỷ giá và thị trường ngoại hối khá ổn định, góp phần tích cực vào ổn định kinh tế vĩ mô. Thanh khoản đồng Việt Nam của toàn hệ thống tín dụng ở trạng thái dồi dào, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tiếp tục duy trì ở mức thấp.

Tổng doanh thu phí toàn thị trường bảo hiểm quý I/2021 ước tính tăng 9% so với cùng kỳ năm 2020, trong đó doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ tăng 6% và doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ tăng 11%. Tính đến hết tháng 02/2021, thị trường bảo hiểm có 70 doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, trong đó có 31 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, 18 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, 2 doanh nghiệp tái bảo hiểm và 19 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Trong 2 tháng đầu năm 2021, tổng tài sản của doanh nghiệp bảo hiểm ước tính đạt 582,4 nghìn tỷ đồng, tăng 24,1% so với cùng kỳ năm 2020. Các doanh nghiệp bảo hiểm đã đầu tư trở lại nền kinh tế ước tính đạt 470,9 nghìn tỷ đồng, tăng 22,9% so với cùng kỳ năm 2020.

Công tác phòng chống dịch Covid-19 hiệu quả, nền kinh tế đạt mức tăng trưởng dương trong năm 2020 đã tác động tích cực đến sự phát triển của thị trường chứng khoán trong quý I/2021. Tính từ đầu năm đến nay, tổng mức huy động vốn trên thị trường chứng khoán ước tính đạt 55.562 tỷ đồng, tăng 42% so với cùng kỳ năm trước.

Trên thị trường cổ phiếu, tính đến 11h00 ngày 24/3/2021, chỉ số VNIndex đạt 1.170 điểm, tăng 0,3% so với cuối tháng trước và tăng 6,08% so với cuối năm 2020. Mức vốn hóa thị trường cổ phiếu tính đến ngày 18/3/2021 đạt 5.916 nghìn tỷ đồng, tăng 11,8% so với cuối năm 2020. Giá trị giao dịch bình quân trong tháng Ba đạt 19.073 tỷ đồng/phiên, tăng 14% so với tháng Hai. Tính chung từ đầu năm đến nay, giá trị giao dịch bình quân đạt 18.907 tỷ đồng/phiên, tăng 155% so với bình quân năm trước. Tính đến cuối tháng 02/2021, thị trường có 762 cổ phiếu, chứng chỉ quỹ niêm yết và 909 cổ phiếu đăng ký giao dịch trên sàn UPCoM với tổng giá trị niêm yết, đăng ký giao dịch đạt 1.532 nghìn tỷ đồng, tăng 1,2% so với cuối năm 2020. 

Trên thị trường trái phiếu, hiện nay thị trường có 467 mã trái phiếu niêm yết với giá trị niêm yết đạt 1.382 nghìn tỷ đồng, tăng 0,4% so với năm 2020. Giá trị giao dịch bình quân trong tháng 3/2021 đạt 9.847 tỷ đồng/phiên, giảm 10,6% so với tháng trước. Tính chung quý I/2021, giá trị giao dịch bình quân trên thị trường đạt 12.433 tỷ đồng/phiên, tăng 19,6% so với bình quân năm 2020.

Trên thị trường chứng khoán phái sinh, khối lượng giao dịch bình quân trong tháng Ba đạt 135.576 hợp đồng/phiên, giảm 25% so với tháng trước. Tính chung từ đầu năm đến nay, khối lượng giao dịch bình quân đạt 174.324 hợp đồng/phiên, tăng 11% so với bình quân năm trước. Khối lượng hợp đồng mở (OI) toàn thị trường tính đến ngày 18/3/2021 đạt 37.264 hợp đồng, tăng 29% so với tháng trước và giảm 8% so với cuối năm 2020.

2. Đầu tư phát triển

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý I/2021 theo giá hiện hành ước đạt 507,6 nghìn tỷ đồng, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng này cho thấy tín hiệu tích cực trong việc huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế trong bối cảnh dịch Covid-19 đã được kiểm soát thành công tại Việt Nam. Đây cũng là động lực quan trọng để việc huy động và sử dụng vốn đầu tư toàn xã hội sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh trong các quý tiếp theo của năm 2021

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý I/2021 theo giá hiện hành ước tính đạt 507,6 nghìn tỷ đồng, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 122,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 24,1% tổng vốn và tăng 7,5%; khu vực ngoài Nhà nước đạt 290,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 57,2% và tăng 5,7%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 95,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 18,7% và tăng 6,5%.

Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước quý I/2021 ước tính đạt 68,1 nghìn tỷ đồng, bằng 14,9% kế hoạch năm và tăng 13% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 bằng 11,8% và tăng 18%), gồm có: Vốn trung ương quản lý đạt 9,4 nghìn tỷ đồng, bằng 12,2% kế hoạch năm và tăng 13,2% so với cùng kỳ năm trước; vốn địa phương quản lý đạt 58,7 nghìn tỷ đồng, bằng 15,4% và tăng 13%, trong đó vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 40,5 nghìn tỷ đồng, bằng 15,2% và tăng 17,5%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 15,3 nghìn tỷ đồng, bằng 15,3% và tăng 5,3%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 2,9 nghìn tỷ đồng, bằng 20,7% và giảm 1,1%.

Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày 20/3/2021 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 10,13 tỷ USD, tăng 18,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 234 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 7,2 tỷ USD, giảm 69,1% về số dự án và tăng 30,6% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; có 161 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 2,1 tỷ USD, tăng 97,4%; có 734 lượt góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn gần 805,3 triệu USD, giảm 58,8%. Trong tổng số lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 179 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị góp vốn là 281 triệu USD và 555 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 524,3 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện quý I/2021 ước tính đạt 4,1 tỷ USD, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đạt gần 3 tỷ USD, chiếm 72,3% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 597,7 triệu USD, chiếm 14,6%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 260,7 triệu USD, chiếm 6,4%.

Trong quý I/2021, ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí được cấp phép mới đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký đạt 4,93 tỷ USD, chiếm 68,2% tổng vốn đăng ký cấp mới; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 1,68 tỷ USD, chiếm 23,3%; các ngành còn lại đạt 612,6 triệu USD, chiếm 8,5%. Nếu tính cả vốn đăng ký bổ sung của các dự án đã cấp phép từ các năm trước thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt hơn 3,6 tỷ USD, chiếm 38,6% tổng vốn đăng ký; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí không có vốn đăng ký bổ sung giữ mức 4,93 tỷ USD, chiếm 52,9%; các ngành còn lại đạt 795,7 triệu USD, chiếm 8,5%. Đối với hình thức góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 317,4 triệu USD, chiếm 42,6% giá trị góp vốn; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 139,2 triệu USD, chiếm 18,6%; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 64,9 triệu USD, chiếm 8,7%; các ngành còn lại 224,2 triệu USD, chiếm 30,1%.

Trong số 56 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong quý I năm nay, Xin-ga-po là nhà đầu tư lớn nhất với 4.285,5 triệu USD, chiếm 59,3% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Nhật Bản 1.484,1 triệu USD, chiếm 20,5%; Trung Quốc 548,9 triệu USD, chiếm 7,6%; Đặc khu hành chính Hồng Công (TQ) 236,7 triệu USD, chiếm 3,3%; Hàn Quốc 187,4 triệu USD, chiếm 2,6%; Hoa Kỳ 148,4 triệu USD, chiếm 2,1%.

Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 3 tháng đầu năm 2021 có 14 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 140,2 triệu USD, gấp 6 lần so với cùng kỳ năm trước; có 6 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn tăng thêm 431,9 triệu USD. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và tăng thêm) đạt 572,1 triệu USD, trong đó; hoạt động chuyên môn khoa học và công nghệ đạt 300 triệu USD, chiếm 52,4% tổng vốn đầu tư; bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 147,8 triệu USD, chiếm 25,8%; nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 76,9 triệu USD, chiếm 13,4%. Trong quý I/2021 có 12 quốc gia và vùng lãnh thổ nhận đầu tư của Việt Nam, trong đó Hoa kỳ là nước dẫn đầu với 300,9 triệu USD, chiếm 52,6%; Cam-pu-chia 88,9 triệu USD, chiếm 15,5%; Pháp và Ca-na-da cùng đạt 32 triệu USD, chiếm 5,6%.

3. Thu, chi ngân sách Nhà nước

Dịch Covid-19 được kiểm soát chặt chẽ, hoạt động sản xuất - kinh doanh trong nước trở lại bình thường như thời điểm trước Tết Nguyên đán Tân Sửu đã tác động tích cực đến thu, chi ngân sách Nhà nước trong 15 ngày đầu tháng Ba. Chi đầu tư phát triển trong kỳ có chuyển biến tốt, trong đó đã hỗ trợ kịp thời để mua sắm vật phẩm, trang thiết bị y tế phục vụ công tác phòng chống dịch Covid-19.

Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/3/2021 ước tính đạt 320,1 nghìn tỷ đồng, bằng 23,8% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 269 nghìn tỷ đồng, bằng 23,7%; thu từ dầu thô 6,5 nghìn tỷ đồng, bằng 28%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 44,1 nghìn tỷ đồng, bằng 24,7%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 32 nghìn tỷ đồng, bằng 21,6% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 54,7 nghìn tỷ đồng, bằng 27,5%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 69,1 nghìn tỷ đồng, bằng 29,1%; thu thuế thu nhập cá nhân 29 nghìn tỷ đồng, bằng 26,9%; thu thuế bảo vệ môi trường 10 nghìn tỷ đồng, bằng 15,6%; thu tiền sử dụng đất 32,2 nghìn tỷ đồng, bằng 28,9%.

Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/3/2021 ước tính đạt 264,2 nghìn tỷ đồng, bằng 15,7% dự toán năm, trong đó chi thường xuyên đạt 196,8 nghìn tỷ đồng, bằng 19%; chi đầu tư phát triển 39,1 nghìn tỷ đồng, bằng 8,2%; chi trả nợ lãi 27,9 nghìn tỷ đồng, bằng 25,4%.

4. Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ

a) Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Quý I/2021 ghi nhận sự phục hồi mạnh mẽ của hoạt động xuất, nhập khẩu. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa quý I/2021 ước tính đạt 152,65 tỷ USD, tăng 24,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 77,34 tỷ USD, tăng 22%; nhập khẩu hàng hóa đạt 75,31 tỷ USD, tăng 26,3%. Cán cân thương mại hàng hóa quý I/2021 ước tính xuất siêu 2,03 tỷ USD.

Xuất khẩu hàng hóa

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa thực hiện tháng 02/2021 đạt 20.196 triệu USD, cao hơn 196 triệu USD so với số ước tính.

Ước tính tháng 3/2021, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 28,6 tỷ USD, tăng 41,6% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 6,79 tỷ USD, tăng 44,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 21,81 tỷ USD, tăng 40,7%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng Ba tăng 19,2%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 5,3%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 24,2%.

Tính chung quý I/2021, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 77,34 tỷ USD, tăng 22% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 18,3 tỷ USD, tăng 4,9%, chiếm 23,7% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 59,04 tỷ USD, tăng 28,5%, chiếm 76,3%.

Trong quý I có 11 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 76,6% tổng kim ngạch xuất khẩu (4 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 54,7%), trong đó điện thoại và linh kiện có giá trị xuất khẩu lớn nhất đạt 14,1 tỷ USD, chiếm 18,2% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 12 tỷ USD, tăng 31,3%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 9,1 tỷ USD, tăng 77,2%; hàng dệt may đạt 7,2 tỷ USD, tăng 1,1%; giày dép đạt 4,7 tỷ USD, tăng 13,5%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 3,7 tỷ USD, tăng 41,5%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 2,7 tỷ USD, tăng 20%; sắt thép đạt 1,8 tỷ USD, tăng 65,2%; thủy sản đạt 1,7 tỷ USD, tăng 3,3%; xơ, sợi dệt đạt 1,2 tỷ USD, tăng 31%; sản phẩm chất dẻo đạt 1,1 tỷ USD, tăng 31%. Nhìn chung, tỷ trọng xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực vẫn thuộc về khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó: Điện thoại và linh kiện chiếm 99,1%; điện tử, máy tính và linh kiện chiếm 98%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng chiếm 93,1%; giày dép chiếm 81,9%; hàng dệt may chiếm 62,5%. Kim ngạch xuất khẩu của một số các mặt hàng nông sản quý I năm nay tăng so với cùng kỳ năm trước: Rau quả đạt 944 triệu USD, tăng 6,1%; cao su đạt 721 triệu USD, tăng 116,5% (lượng tăng 89,7%); sắn và các sản phẩm từ sắn đạt 396 triệu USD, tăng 53,2% (lượng tăng 40,3); chè đạt 41 triệu USD, tăng 6,2% (lượng giảm 3,1%). Bên cạnh đó, có một số mặt hàng giảm: Cà phê đạt 771 triệu USD, giảm 11,3% (lượng giảm 17%); hạt điều đạt 634 triệu USD, giảm 5,8% (lượng tăng 13,2%); gạo đạt 606 triệu USD, giảm 17,4% (lượng giảm 30,4%); hạt tiêu đạt 174 triệu USD, giảm 1,3% (lượng giảm 25%).

Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu quý I/2021, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản ước tính đạt 43,2 tỷ USD, tăng 25,9% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 55,9% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa (tăng 1,7 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước). Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp ước tính đạt 27,1 tỷ USD, tăng 20,6% và chiếm 35% (giảm 0,4 điểm phần trăm). Nhóm hàng nông, lâm sản đạt 5,35 tỷ USD, tăng 7,9% và chiếm 6,9% (giảm 0,9 điểm phần trăm). Nhóm hàng thủy sản đạt 1,69 tỷ USD, tăng 3,3% và chiếm 2,2% (giảm 0,4 điểm phần trăm).

Về thị trường xuất khẩu hàng hóa quý I/2021, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 21,2 tỷ USD, tăng 32,8% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là Trung Quốc đạt 12,5 tỷ USD, tăng 34,3%; thị trường EU đạt 9,6 tỷ USD, tăng 14,2%; thị trường ASEAN đạt 6,5 tỷ USD, tăng 3,4%; Hàn Quốc đạt 5 tỷ USD, tăng 6,4%; Nhật Bản đạt 4,9 tỷ USD, giảm 1,5%.

Nhập khẩu hàng hóa

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa thực hiện tháng 02/2021 đạt 20.656 triệu USD, thấp hơn 144 triệu USD so với số ước tính.

Ước tính tháng 3/2021, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 28,2 tỷ USD, tăng 36,5% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 9,45 tỷ USD, tăng 40,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 18,75 tỷ USD, tăng 34,8%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Ba tăng 27,7%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 19%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 32,6%.

Tính chung quý I/2021, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước tính đạt 75,31 tỷ USD, tăng 26,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 25,05 tỷ USD, tăng 17%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 50,26 tỷ USD, tăng 31,5%.

Trong quý I/2021 có 15 mặt hàng nhập khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD, chiếm 73,3% tổng kim ngạch nhập khẩu (2 mặt hàng đạt trên 5 tỷ USD, chiếm 36,7%), trong đó: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 16,8 tỷ USD (chiếm 22,3% tổng kim ngạch nhập khẩu), tăng 22% so với cùng kỳ năm trước; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 10,8 tỷ USD, tăng 30,7%; điện thoại và linh kiện đạt 4,9 tỷ USD, tăng 48,1%; vải đạt 2,9 tỷ USD, tăng 9,2%; chất dẻo đạt 2,9 tỷ USD, tăng 39,3%; sắt thép đạt 2,6 tỷ USD, tăng 27,8%; ô tô đạt 2 tỷ USD, tăng 29,9%; sản phẩm chất dẻo đạt 1,9 tỷ USD, tăng 15%.

Về cơ cấu nhập khẩu hàng hóa quý I/2021, nhóm hàng tư liệu sản xuất ước tính đạt 70,58 tỷ USD, tăng 26,8% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 93,7% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa (tăng 0,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước), trong đó nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ, phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 35,5 tỷ USD, tăng 28,4% và chiếm 47,1% (tăng 0,7 điểm phần trăm); nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu đạt 35,08 tỷ USD, tăng 25,1% và chiếm 46,6% (giảm 0,4 điểm phần trăm). Nhóm hàng tiêu dùng ước tính đạt 4,73 tỷ USD, tăng 19,7% và chiếm 6,3% (giảm 0,3 điểm phần trăm).

Về thị trường nhập khẩu hàng hóa quý I năm nay, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 23,8 tỷ USD, tăng 47,3% so với cùng kỳ năm trước; tiếp theo là Hàn Quốc đạt 13 tỷ USD, tăng 9,9%; thị trường ASEAN đạt 9,3 tỷ USD, tăng 26,3%; Nhật Bản đạt 5,1 tỷ USD, tăng 4,8%; thị trường EU đạt 4 tỷ USD, tăng 15,4%; Hoa Kỳ đạt 4 tỷ USD, tăng 12,3%.

Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng 02/2021 nhập siêu 460 triệu USD; 2 tháng xuất siêu 1,63 tỷ USD; tháng Ba ước tính xuất siêu 400 triệu USD. Ước tính quý I/2021 xuất siêu 2,03 tỷ USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 6,75 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 8,78 tỷ USD.

b) Xuất, nhập khẩu dịch vụ

Trong quý I/2021, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước tính đạt 869 triệu USD, giảm 77,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dịch vụ du lịch đạt 34 triệu USD (chiếm 3,9% tổng kim ngạch), giảm 98,6%; dịch vụ vận tải đạt 70 triệu USD (chiếm 8,1%), giảm 86,9%. Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ quý I năm nay ước tính đạt 4,98 tỷ USD, giảm 1,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dịch vụ vận tải đạt 2,38 tỷ USD (chiếm 47,7% tổng kim ngạch), tăng 25%; dịch vụ du lịch đạt 900 triệu USD (chiếm 18,1%), giảm 34,8%. Nhập siêu dịch vụ quý I/2021 là 4,11 tỷ USD, gấp gần 5 lần kim ngạch xuất khẩu dịch vụ và tăng 2,86 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước.

5. Chỉ số giá

Nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng sau Tết Nguyên đán giảm theo quy luật hàng năm, giá các loại thực phẩm giảm do nguồn cung dồi dào là nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3/2021 giảm 0,27% so với tháng trước, tăng 1,31% so với tháng 12/2020. So với cùng kỳ năm trước, CPI tháng Ba tăng 1,16%, thấp nhất kể từ năm 2016; CPI bình quân quý I/2021 tăng 0,29%, mức tăng thấp nhất trong 20 năm qua. Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản quý I/2021 tăng 1,34% so với quý IV/2020 và tăng 4,54% so với cùng kỳ năm trước; chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp tăng 1,04% và tăng 0,27%; chỉ số giá sản xuất dịch vụ tăng 0,01% và giảm 0,27%; chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất tăng 2,14% và 4,63%. Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá quý I/2021 tăng 0,75% so với quý IV/2020 và giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước; chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá tăng 1,54% và tăng 1,2%. Tỷ giá thương mại hàng hóa quý I/2021 giảm 0,78% so với quý IV/2020 và giảm 1,49% so với cùng kỳ năm trước.

a) Chỉ số giá tiêu dùng

Trong mức giảm 0,27% của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3/2021 so với tháng trước có 7/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm, trong đó: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm nhiều nhất với 1,46% (làm CPI chung giảm 0,49 điểm phần trăm), trong đó: lương thực tăng 0,01; thực phẩm giảm 2,2%; ăn uống ngoài gia đình giảm 0,23%. Nhu cầu tiêu dùng về hàng hóa và dịch vụ của người dân sau Tết Nguyên đán giảm nên giá nhóm đồ uống và thuốc lá giảm 0,37% (trong đó: giá nước giải khát có ga giảm 0,26%, rượu bia các loại giảm 0,5%, thuốc hút giảm 0,34%); nhóm may mặc, mũ nón, giày dép giảm 0,2%; bưu chính viễn thông giảm 0,13%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,05%. Ảnh hưởng của dịch Covid-19, nhu cầu đi lại, du lịch giảm nên nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,03%. Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,28%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm: Nhóm giao thông tăng 2,29% (làm CPI chung tăng 0,22 điểm phần trăm), chủ yếu do ảnh hưởng của đợt điều chỉnh tăng giá xăng, dầu vào thời điểm 25/02/2021, 12/3/2021 và 27/3/2021, ở chiều ngược lại, giá một số mặt hàng giảm theo quy luật trở về mặt bằng giá thông thường sau Tết Nguyên đán. Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,24%, do giá điện sinh hoạt tăng 0,52% (làm CPI chung tăng 0,02 điểm phần trăm); giá gas tăng 1,37%; giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,27% và giá dầu hỏa tăng 7,92%. Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,02% chủ yếu do thời tiết giao mùa, các loại vi rút gây bệnh sinh sôi mạnh, người dân dễ mắc bệnh hô hấp nên nhu cầu mua các loại thuốc tăng cường hệ miễn dịch tăng. Nhóm giáo dục tăng 0,01%.

CPI bình quân quý I/2021 so với cùng kỳ năm 2020 tăng 0,29%; CPI tháng 3/2021 tăng 1,31% so với tháng 12/2020 và tăng 1,16% so với cùng kỳ năm 2020. CPI quý I năm nay tăng so với cùng kỳ năm trước do một số nguyên nhân chủ yếu: (i) Giá gạo trong nước tăng theo giá gạo xuất khẩu và nhu cầu tiêu dùng gạo nếp và gạo tẻ ngon trong dịp Tết Nguyên đán tăng cao làm cho giá gạo quý I/2021 tăng 8,55% (làm CPI chung tăng 0,22 điểm phần trăm); (ii) Giá các mặt hàng thực phẩm tăng 0,49% (làm CPI chung tăng 0,1 điểm phần trăm); (iii) Giá ăn uống ngoài gia đình tăng 2,08% theo giá lương thực, thực phẩm; (iv) Giá gas trong nước tăng 7,58% do biến động theo giá gas thế giới; (v) Giá dịch vụ giáo dục tăng 4,49% do ảnh hưởng từ đợt tăng học phí năm học mới 2020-2021 theo lộ trình của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP.

Bên cạnh các nguyên nhân làm tăng CPI quý I/2021, có một số yếu tố góp phần kiềm chế CPI: (i) Chính phủ triển khai các gói hỗ trợ cho người dân và người sản xuất gặp khó khăn do dịch Covid-19, trong đó gói hỗ trợ của Tập đoàn Điện lực Việt Nam triển khai giảm giá điện, tiền điện cho khách hàng trong quý II và quý IV năm 2020 nên giá điện tháng 01/2021 giảm 16,88% so với tháng trước làm cho giá điện sinh hoạt bình quân quý I/2021 giảm 7,18% so với cùng kỳ năm 2020 (tác động làm CPI chung giảm 0,24 điểm phần trăm); (ii) Giá xăng dầu trong nước bình quân quý I/2021 giảm 9,54% so với cùng kỳ năm trước (tác động làm CPI chung giảm 0,34 điểm phần trăm) và giá dầu hỏa giảm 14,5%; (iii) Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, nhu cầu đi lại, du lịch của người dân giảm so với cùng kỳ năm trước làm cho giá vé máy bay quý I/2021 giảm 24,28%; giá vé tàu hỏa giảm 10,03%; giá du lịch trọn gói giảm 4%; (iv) Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời chỉ đạo quyết liệt các Bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp kiểm soát, khống chế dịch bệnh, bảo đảm sức khỏe người dân, giữ vững ổn định kinh tế - xã hội.

Lạm phát cơ bản tháng 3/2021 giảm 0,12% so với tháng trước và tăng 0,73% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân quý I/2021 tăng 0,67% so với bình quân cùng kỳ năm trước.

b) Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ

Giá vàng trong nước biến động theo giá vàng thế giới do sự hỗ trợ của các gói kích thích tài khóa cùng với việc đồng USD và lợi suất trái phiếu Mỹ phục hồi khiến vàng trở nên kém hấp dẫn. Bình quân giá vàng thế giới đến ngày 27/3/2021 giảm 4,77% so với tháng 2/2021. Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 3/2021 giảm 2,97% so với tháng trước; giảm 0,63% so với tháng 12/2020 và tăng 16,84% so với cùng kỳ năm trước.

Đồng đô la Mỹ trên thị trường thế giới tăng trong bối cảnh tiêm vắc - xin ngừa Covid-19 được triển khai rộng rãi trên nước Mỹ; đồng thời từ ngày 12/3/2021, Mỹ bắt đầu triển khai gói cứu trợ giảm tác động tiêu cực của dịch Covid-19, kích thích nền kinh tế trị giá 1.900 tỷ USD. Bên cạnh đó, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) thông báo giữ nguyên lãi suất cơ bản ở mức 0%-0,25% và duy trì chương trình mua trái phiếu ở mức ít nhất 120 tỷ USD/tháng để hỗ trợ tiến trình phục hồi kinh tế Mỹ khiến giá đô la Mỹ tăng. Trong nước, lượng dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đảm bảo đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp nhập khẩu. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 3/2021 tăng 0,23% so với tháng trước; giảm 0,11% so với tháng 12/2020 và giảm 0,7% so với cùng kỳ năm 2020.

c) Chỉ số giá sản xuất

Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản quý I/2021 tăng 1,34% so với quý IV/2020 và tăng 4,54% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp tăng 0,82% và tăng 6,7%; lâm nghiệp tăng 0,08% và giảm 0,07%; thủy sản tăng 3,08% và giảm 1,32%.

Chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp quý I/2021 tăng 1,04% so với quý IV/2020 và tăng 0,27% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá sản xuất sản phẩm khai khoáng tăng 9,47% và giảm 3,25%; sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,04% và tăng 0,59%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 2,24% và giảm 1,71%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,02% và tăng 1,54%.

Chỉ số giá sản xuất dịch vụ quý I/2021 tăng 0,01% so với quý IV/2020 và giảm 0,27% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 0,69% và tăng 0,05%; giáo dục và đào tạo tăng 0,44% và tăng 3,17%; dịch vụ vận tải, kho bãi tăng 0,27% và giảm 2,78%; nghệ thuật, vui chơi và giải trí tăng 0,27% và tăng 0,43%; y tế và trợ giúp xã hội tăng 0,14% và tăng 0,25%; thông tin và truyền thông giảm 0,01% và giảm 2,05%.

d) Chỉ số giá xuất, nhập khẩu hàng hóa

Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá quý I/2021 tăng 0,75% so với quý IV/2020 và giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá nhóm nông sản, thực phẩm tăng 1,3% và tăng 0,57%; nhóm nhiên liệu tăng 2,7% và giảm 19,36%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo khác tăng 0,6% và tăng 0,4%. Chỉ số giá xuất khẩu quý I/2021 so với quý IV/2020 và so với cùng kỳ năm trước của một số mặt hàng như sau: Sắt thép tăng 12,05% và tăng 4,73%; xăng dầu tăng 4,79% và giảm 11,26%; cao su tăng 4,59% và tăng 1,82%; phân bón tăng 3,7% và tăng 2,8%; điện thoại và thiết bị di động giảm 0,94% và giảm 2,8%; máy ảnh, máy quay phim và linh kiện giảm 0,71% và tăng 1,29%; chè giảm 0,53% và tăng 7,98%; than đá giảm 0,4% và giảm 1,35%; dây và cáp điện giảm 0,22% và giảm 1,03%.

Chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá quý I năm nay tăng 1,54% so với quý IV/2020 và tăng 1,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá nhập khẩu nhóm nông sản, thực phẩm tăng 1,28% và tăng 1,81%; nhóm nhiên liệu tăng 12,92% và tăng 11,5%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo khác tăng 1,03% và tăng 0,7%. Chỉ số giá nhập khẩu quý I/2021 của một số mặt hàng: Khí đốt hóa lỏng tăng 24,57% so với quý IV/2020 và tăng 1,53% so với cùng kỳ năm trước; xăng dầu các loại tăng 14,53% và tăng 15,14%; hóa chất tăng 6,57% và tăng 2,53%; kim loại thường khác tăng 6,49% và tăng 7,52%; thức ăn gia súc và nguyên liệu tăng 5,54% và tăng 7,49%; cao su tăng 3,94% và tăng 5,07%; sản phẩm từ cao su giảm 0,75% và giảm 2,12%; ô tô nguyên chiếc các loại giảm 0,68% và giảm 3,27%; phân bón các loại giảm 0,33% và giảm 0,84%.

Tỷ giá thương mại hàng hóa quý I/2021 giảm 0,78% so với quý IV/2020 và giảm 1,49% so với cùng kỳ năm trước, trong đó tỷ giá thương mại của xăng dầu các loại giảm 8,5% và giảm 22,93%; hóa chất giảm 6,16% và giảm 2,47%; hàng rau quả giảm 1,92% và tăng 0,35%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện giảm 0,39% và giảm 1,36%; sắt, thép tăng 8,4% và tăng 0,3%; hàng thủy sản tăng 1,13% và giảm 2,8%; cao su tăng 0,62% và giảm 3,09%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 0,48% và tăng 0,79%.

III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI

1. Lao động và việc làm

Tình hình lao động, việc làm cả nước trong quý I/2021 chịu ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19 bùng phát trở lại vào cuối tháng Một. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động giảm 1,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm của lực lượng lao động trong độ tuổi lần lượt là 2,42% và 2,20%, tăng so với quý I/2020.

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước quý I/2021 ước tính là 51 triệu người, giảm 1,1 triệu người so với quý trước và giảm 180,9 nghìn người so với cùng kỳ năm 2020 do tâm lý “tháng giêng là tháng ăn chơi” của nhiều lao động sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán và dịch Covid-19 bùng phát trở lại vào cuối tháng 01/2021. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quý I/2021 ước tính đạt 68,7%, giảm 1,6 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 1,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.

Lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc trong quý I/2021 ước tính là 49,9 triệu người, bao gồm 14,1 triệu người đang làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 28,2% tổng số, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước; khu vực công nghiệp và xây dựng 16,1 triệu người, chiếm 32,3%, giảm 2,6%; khu vực dịch vụ 19,7 triệu người, chiếm 39,5%, tăng 1%.

Tỷ lệ thất nghiệp chung cả nước quý I/2021 ước tính là 2,19%, trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 2,96%; khu vực nông thôn là 1,76%. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi quý I/2021 là 2,42%, trong đó khu vực thành thị là 3,19%; khu vực nông thôn là 1,98%. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) quý I/2021 ước tính là 7,44%, trong đó khu vực thành thị là 10,34%; khu vực nông thôn là 5,99%.
Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý I/2021 ước tính là 2,20%, trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 1,52%; khu vực nông thôn là 2,60% (tỷ lệ thiếu việc làm của quý I/2020 tương ứng là 1,98%; 1,07%; 2,47%).

Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản quý I/2021 ước tính là 57,1%, trong đó khu vực thành thị là 48,4%; khu vực nông thôn là 64,3%. Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản quý I/2020 tương ứng là 55,3%; 47,3%; 61,7%.

Thu nhập bình quân tháng của lao động làm công hưởng lương trong quý I/2021 ước tính là 7,2 triệu đồng/tháng, tăng hơn 557 nghìn đồng so với quý trước và tăng 133 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước, trong đó thu nhập của lao động nam là 7,6 triệu đồng/tháng, lao động nữ là 6,6 triệu đồng/tháng.

2. Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội

Trong quý I năm nay, công tác an sinh xã hội đặc biệt được quan tâm thực hiện trong bối cảnh dịch Covid-19 với biến thể mới tái bùng phát trở lại từ cuối tháng Một. Bên cạnh việc chăm lo Tết cho người dân, tính đến ngày 23/3/2021, Chính phủ đã hỗ trợ cứu đói giáp hạt cho hơn 236,2 nghìn nhân khẩu với tổng lượng gạo là 3.393,5 tấn cho 7 địa phương: Quảng Bình, Lạng Sơn, Đắk Nông, Lai Châu, Gia Lai, Điện Biên và Sơn La. Như vậy từ tháng 6/2020 đến nay, đây là tháng thứ 10 liên tiếp không phát sinh thiếu đói trên phạm vi cả nước. Ngoài ra, có hơn 22,2 triệu thẻ BHYT/sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí được phát, tặng cho các đối tượng chính sách trên đại bàn cả nước.

Chương trình xây dựng nông thôn mới trong những năm qua có tác động tích cực, góp phần nâng cao đời sống người dân khu vực nông thôn, đẩy mạnh phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội khu vực nông thôn. Tính đến ngày 22/3/2021, cả nước có 5.193/8.267 xã (62,8%) và 180 huyện (chiếm 27,1% tổng số đơn vị cấp huyện của cả nước) được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Có 12 tỉnh có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 04 tỉnh: Nam Định, Đồng Nai, Hưng Yên và Hà Nam đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.

3. Giáo dục, đào tạo

Trước những diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, ngành Giáo dục đã có những biện pháp cấp bách phòng, chống dịch trong các cơ sở giáo dục và đào tạo nhằm bảo đảm an toàn, kiểm soát hiệu quả, không để dịch bùng phát. Theo báo cáo sơ bộ, năm học 2020-2021 cả nước có 4.311,6 nghìn học sinh mẫu giáo, giảm 0,1% so với năm học 2019-2020; 17.547,6 nghìn học sinh phổ thông, tăng 3%, bao gồm 8.883,7 nghìn học sinh tiểu học, tăng 1,6%; 5.922,2 nghìn học sinh trung học cơ sở, tăng 4,9% và 2.741,7 nghìn học sinh trung học phổ thông, tăng 3,3%. Dịch Covid-19 đã khiến cho hoạt động giáo dục nói chung, giáo dục nghề nghiệp nói riêng bị ngưng trệ, gián đoạn. Mặc dù nhiều cơ sở giáo dục nghề nghiệp nỗ lực tiếp cận triển khai dạy học trực tuyến nhưng với đặc thù là học lý thuyết tại trường kết hợp với thực hành tại xưởng, nhà máy, xí nghiệp thì dạy nghề online là một thách thức. Năm 2021, Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp đặt mục tiêu tuyển sinh 2,5 triệu người. Trong đó, trình độ cao đẳng là 260 nghìn người; trung cấp đạt 340 nghìn người; sơ cấp và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác đạt 1,9 triệu người.

4. Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm

Trong tháng (19/2-18/3/2021), cả nước có 5.429 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (2 trường hợp tử vong); 4.480 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 30 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do vi rút, 1 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu và 39 trường hợp sốt phát ban nghi sởi, trong đó có 2 trường hợp dương tính. Tính chung 3 tháng đầu năm, cả nước có 15.982 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (3 trường hợp tử vong); 11.871 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (1 trường hợp tử vong); 81 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do vi rút; 6 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu (1 trường hợp tử vong) và 104 trường hợp sốt phát ban nghi sởi, trong đó có 4 trường hợp dương tính.

Dịch Covid-19 trên thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp. 5 quốc gia có số ca mắc Covid-19 nhiều nhất thế giới là Mỹ, Bra-xin, Ấn Độ, Nga và Pháp. Tại Việt Nam, tính đến 6h00 ngày 28/3/2021 có 2.590 trường hợp mắc, 2.308 trường hợp đã được chữa khỏi (35 trường hợp tử vong).

Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 18/3/2021 là 211.395 người; số người đã chuyển sang giai đoạn AIDS là 97.144 người và số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 99.224 người.

Về ngộ độc thực phẩm, trong tháng Ba xảy ra 10 vụ với 208 người bị ngộ độc. Tính chung 3 tháng đầu năm, cả nước xảy ra 17 vụ với 400 người bị ngộ độc (2 người tử vong).

5. Hoạt động văn hóa, thể thao

Bằng sự nỗ lực, tích cực trong công tác quảng bá, văn hóa Việt Nam đã và đang được cải thiện, thậm chí có sức lan tỏa rộng khắp trong và ngoài nước. Ngày 09/3/2021 có 8 di sản văn hóa phi vật thể thuộc 5 loại hình: nghề thủ công truyền thống, lễ hội truyền thống, nghệ thuật trình diễn dân gian, tập quán xã hội và tín ngưỡng, tri thức dân gian đã được công nhận và đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Bước vào mùa lễ hội đầu năm 2021, trong bối cảnh dịch Covid-19 chưa được đẩy lùi, các địa phương vẫn thực hiện nghiêm việc hạn chế các lễ hội, điều chỉnh cho phù hợp để phòng, chống dịch hiệu quả, tăng cường công tác tuyên truyền, hướng dẫn, yêu cầu nhân dân thực hiện thông điệp "5K" tại các điểm du lịch, bảo tàng, di tích, danh lam thắng cảnh, nơi tổ chức hoạt động văn hóa, địa điểm tổ chức lễ hội.

Tập luyện thể dục thể thao có tác dụng rất lớn đối với việc nâng cao sức khỏe, tầm vóc, thể lực, chất lượng cuộc sống của nhân dân, góp phần xây dựng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Trải qua 75 năm kể từ ngày Bác Hồ viết lời kêu gọi đồng bào tập thể dục, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm phát triển sự nghiệp thể dục thể thao, các phong trào tập luyện thể dục thể thao được tổ chức rộng khắp, phát động nhiều phong trào thể thao quần chúng như cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” giai đoạn 2021-2030 và Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân năm 2021.

Về thể thao thành tích cao của Việt Nam, bên cạnh công tác phòng chống dịch Covid-19, các hoạt động thể dục thể thao trong nước đang dần trở lại với không khí sôi động, được đông đảo người dân, người hâm mộ hưởng ứng, trong đó phải kể đến giải V-League đã chính thức thi đấu trở lại từ ngày 13/3/2021. Với mục tiêu giành vé tham dự Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 đội tuyển Bắn súng Việt Nam đã sang Ấn Độ dự giải Cúp Bắn súng thế giới, đây sẽ là chuyến thi đấu nước ngoài đầu tiên của thể thao Việt Nam sau một thời gian dài không tham dự các giải đấu quốc tế do ảnh hưởng của dịch Covid-19.

6. Tai nạn giao thông

Trong tháng (từ 15/2 đến 14/3), trên địa bàn cả nước đã xảy ra 851 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 571 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 280 vụ va chạm giao thông, làm 442 người chết, 342 người bị thương và 296 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tháng Ba giảm 22,7% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 8,1% và số vụ va chạm giao thông giảm 41,7%); số người chết giảm 14%; số người bị thương tăng 8,6% và số người bị thương nhẹ giảm 37,4%.

Tính chung quý I/2021, trên địa bàn cả nước xảy ra 3.206 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 2.074 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 1.132 vụ va chạm giao thông, làm 1.672 người chết, 1.122 người bị thương và 1.264 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông trong 3 tháng đầu năm 2021 giảm 7,6% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên tăng 6,8%; số vụ va chạm giao thông giảm 25,9%); số người chết tăng 2%; số người bị thương tăng 11,8% và số người bị thương nhẹ giảm 19,2%. Bình quân 1 ngày trong 3 tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước xảy ra 36 vụ tai nạn giao thông, gồm 23 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 13 vụ va chạm giao thông, làm 19 người chết, 13 người bị thương và 14 người bị thương nhẹ.

7. Thiệt hại do thiên tai 

Thiệt hại do thiên tai trong tháng Ba chủ yếu do ảnh hưởng của gió mạnh trên biển, mưa đá, mưa lớn, giông lốc và sạt lở sụt lún đất làm 2 người mất tích; 61,1 ha lúa và hoa màu bị hư hỏng do mua lốc gây ra tại Cao Bằng, Bắc Kạn, Sơn La; 71 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và hư hỏng. Theo báo cáo sơ bộ từ các địa phương, tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong tháng là 4,2 tỷ đồng, giảm 99,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Tính chung 3 tháng đầu năm, thiên tai làm 3 người mất tích; 1 người bị thương; 459,5 lúa và hoa màu bị hư hỏng; gần 3,9 nghìn con gia súc và gia cầm bị chết; 705 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và bị hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong quý I ước tính gần 42,1 tỷ đồng, giảm 95,5% so với cùng kỳ năm trước.

8. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ

Trong tháng Ba, cơ quan chức năng đã phát hiện 985 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 952 vụ với tổng số tiền phạt là 12,9 tỷ đồng. Tính chung 3 tháng đầu năm đã phát hiện 5.375 vụ vi phạm môi trường trên địa bàn cả nước, trong đó xử lý 4.764 vụ với tổng số tiền phạt 55,5 tỷ đồng.

Trong tháng (từ ngày 16/2 đến ngày 15/3), trên địa bàn cả nước xảy ra 171 vụ cháy, nổ, làm 3 người chết và 9 người bị thương, tài sản thiệt hại ước tính 21,6 tỷ đồng. Tính chung 3 tháng đầu năm (từ ngày 16/12/2020 đến ngày 15/3/2021), cả nước xảy ra 626 vụ cháy, nổ, làm 21 người chết và 39 người bị thương, tài sản thiệt hại ước tính là 161,2 tỷ đồng.

Khái quát lại, trong bối cảnh dịch Covid-19 vẫn còn diễn biến phức tạp trên thế giới với các biến thể mới nhưng nhờ vào sự nỗ lực nghiên cứu và triển khai tiêm chủng vắc xin, bức tranh kinh tế - xã hội Việt Nam quý I/2021 tiếp tục duy trì ổn định và đạt được những kết quả tích cực trên các lĩnh vực là nhờ sự chỉ đạo, điều hành kịp thời, quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của các cấp, các ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước. Nền kinh tế đạt mức tăng trưởng 4,48%, đây là mức tăng trưởng khá so với các nước trong khu vực và trên thế giới, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp. Cung cầu hàng hóa trong nước được bảo đảm, hoạt động mua sắm hàng hóa, tiêu dùng và xuất khẩu tăng cao. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có mức tăng trưởng khá cao khẳng định chuyển đổi cơ cấu ngành đã phát huy hiệu quả, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết yếu. Công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quý I/2021. Tiến độ giải ngân vốn đầu tư công được cải thiện rõ rệt, tốc độ tăng vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt mức cao nhất kể từ năm 2011, an sinh xã hội được quan tâm thực hiện.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, bước sang quý II, kinh tế - xã hội nước ta còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn nên chịu tác động đan xen nhiều mặt bởi tình hình kinh tế quốc tế ngày càng phức tạp, khó lường. Dịch Covid-19 tuy đã cơ bản được khống chế ở Việt Nam nhưng còn diễn biến phức tạp trên thế giới làm gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu, ảnh hưởng tới các ngành thương mại, du lịch, vận tải, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm tăng sẽ ảnh hưởng đến an sinh xã hội. Do đó, kinh tế Việt Nam năm 2021 tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, việc đạt mục tiêu tăng trưởng 6,5% là thách thức lớn, cần sự chung sức, đồng lòng của Chính phủ, doanh nghiệp và người dân. Trước mắt, cần thực hiện kiểm soát tốt dịch Covid-19, nhanh chóng triển khai tiêm vắc xin phòng Covid-19, tiếp tục thực hiện các giải pháp doanh nghiệp có thể tiếp cận nhanh chóng, hiệu quả các gói hỗ trợ, tăng tốc độ giải ngân vốn đầu tư công. Đồng thời, tập trung một số nội dung trọng tâm sau đây:

Một là, ngành Nông nghiệp cần điều chỉnh phù hợp về cơ cấu mùa vụ lúa, diện tích gieo trồng, cơ cấu giống hoặc chuyển đổi cơ cấu sản xuất trên đất trồng lúa, tăng cường chỉ đạo sản xuất các cây trồng chủ lực thích ứng với biến đổi khí hậu, và đặc biệt cần linh hoạt trong chỉ đạo với từng vùng, từng loại cây. Việc chuyển đổi cần phù hợp thổ nhưỡng và thị trường. Trong quá trình chuyển đổi, các cơ quan hữu quan cần luôn bám sát và có những kiến nghị để sản xuất không chạy theo phong trào, tránh tái diễn việc “giải cứu” nông sản. Đối với các địa phương áp dụng mô hình canh tác tôm - lúa, cần có định hướng và quy hoạch, quy định rõ ràng về việc trồng lúa kết hợp với nuôi trồng thủy sản để vừa đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, vừa đảm bảo đất lúa không bị nhiễm phèn, nhiễm mặn do canh tác lúa - tôm. Đối với chăn nuôi, tiếp tục các biện pháp kiểm soát dịch bệnh, đặc biệt dịch tả lợn châu Phi, tiếp tục đưa ra các chính sách, gói hỗ trợ và hướng dẫn kỹ thuật để người nông dân tái đàn khôi phục đàn lợn nhằm ổn định thị trường và giá cả mặt hàng thịt lợn trong nước; chăn nuôi gia cầm cần kiểm soát tốt về mặt tăng đàn, theo dõi sát nhu cầu của thị trường tránh tăng đàn ồ ạt.

Hai là, hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm như: tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu, hỗ trợ thuế, phí xuất khẩu, kích cầu tiêu thụ trong nước… Tiếp tục miễn, giảm các loại thuế, phí và tiền thuê đất năm 2021. Mở rộng đối tượng được gia hạn nộp thuế theo Nghị định 41/2020/NĐ-CP của Chính phủ ngày 08/4/2020. Cùng với đó, cần ngăn chặn hiệu quả hàng nhập lậu, chống chuyển giá, gian lận nhãn mác hàng hóa đột lốt hàng Việt Nam để xuất khẩu nhằm tận dụng các lợi thế của Việt Nam khi tham gia các hiệp định thương mại.

Ba là, phát huy lợi thế và vị thế của đất nước trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, thành công trong ngăn ngừa và xử lý dịch Covid-19 thời gian qua, tạo niềm tin cho nhà đầu tư nước ngoài để thu hút đầu tư. Chủ động, theo dõi, đánh giá xu hướng dịch chuyển dòng FDI vào Việt Nam để có những điều chỉnh chính sách phù hợp trong việc thu hút dòng vốn FDI có chất lượng, thân thiện môi trường đóng góp cho tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.

Bốn là, tổ chức khai thác, tận dụng cơ hội từ các FTA để tìm giải pháp phát triển thị trường và tháo gỡ rào cản để thâm nhập các thị trường mới. Ưu tiên triển khai các hoạt động xúc tiến xuất khẩu, tiếp tục triển khai các hoạt động kết nối cung cầu, xúc tiến thương mại để hỗ trợ tiêu thụ các mặt hàng sản xuất trong nước, đặc biệt đối với các sản phẩm tươi sống.

Năm là, điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất, tỷ giá linh hoạt, thận trọng, phù hợp với diễn biến thị trường trong nước và quốc tế, phối hợp hài hòa với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, hỗ trợ sản xuất kinh doanh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chủ động phòng ngừa và hạn chế những bất ổn của thị trường thế giới tác động tiêu cực đến thị trường trong nước. Tăng trưởng tín dụng đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh.

Sáu là, theo dõi chặt chẽ tình hình thời tiết, chủ động phương án phòng chống thiên tai, cảnh báo mưa lũ, sạt lở, tác động của hạn hán, xâm nhập mặn nhằm hạn chế tối đa thiệt hại tới sản xuất và cuộc sống của người dân. Thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, lao động, việc làm. Thực hiện tốt công tác trợ giúp đột xuất, bảo đảm người dân khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời, khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống. Tăng cường công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ./.

 
Nguồn: Tổng cục Thống kê
 

 
[2] Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát trển nông thôn ngày 26/3/2021.
[3] Giá tôm sú tại Tây Nam Bộ loại 30 con/kg tại thời điểm trung tuần tháng Ba là 170.000-180.000 đồng/kg, tăng 20.000-25.000 đồng/kg so với thời điểm kỳ cùng năm trước (http://agromonitor.vn/group/47/269/duy-nhat).
[4] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Báo cáo nhận ngày 26/3/2021).
[5] So với cùng kỳ năm trước, số doanh nghiệp giảm 9%; số vốn đăng ký giảm 14%; số lao động đăng ký giảm 15,5%.
[6] Chỉ số tương ứng của quý IV/2020: Có 40,6% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn quý trước; 24,7% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn và 34,7% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định.  
[7] Chỉ số tương ứng của quý IV/2020: Có 42,5% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất của doanh nghiệp tăng so với quý trước; 24,4% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất giảm và 33,1% số doanh nghiệp cho rằng ổn định.      
[8] Chỉ số tương ứng của quý IV/2020: Có 37,6% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng tăng so với quý trước; 23,5% số doanh nghiệp có đơn đăt hàng giảm và 38,9% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng ổn định.
[9] Vốn đầu tư mới tăng mạnh do trong tháng 3 có 3 dự án của Tập đoàn Vingroup đầu tư sang Pháp, Hà Lan, Canada với vốn đầu tư mỗi dự án là 32 triệu USD và 01 dự án 20,5 triệu USD tại Singapore với mục tiêu kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị viễn thông, điện tử, đồ gia dụng, ô tô.
[10] Vốn đầu tư điều chỉnh tăng mạnh do trong tháng 3 có dự án của Vingroup tại Hoa Kỳ điều chỉnh tăng 300 triệu USD; dự án Công ty TNHH Đầu tư và phát triển cao su Đông Dương tại Campuchia tăng 76 triệu USD và 01 dự án của Vinfast tại Đức tăng 32 triệu USD.
[11] Số liệu tháng 3/2021 do Tổ liên ngành gồm Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Tổng cục Hải quan và Tổng cục Thống kê họp ước tính căn cứ trên số liệu kim ngạch xuất, nhập khẩu tính đến ngày 25/3/2021 của Tổng cục Hải quan kết hợp với thông tin thị trường, tỷ trọng và xu hướng xuất, nhập khẩu các mặt hàng. Tổng cục Thống kê nhận được và cập nhật báo cáo vào ngày 27/3/2021.
[12] Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa quý I/2020 đạt 123,02 tỷ USD, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 63,39 tỷ USD, tăng 7,8%; nhập khẩu đạt 59,63 tỷ USD, tăng 3,9%.
[13] Tháng Hai ước tính nhập siêu 800 triệu USD.
[14] Trong đó, quý I/2021 xuất siêu sang EU đạt 5,6 tỷ USD, tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước; nhập siêu từ Trung Quốc 11,3 tỷ USD, tăng 65,1%; nhập siêu từ Hàn Quốc 8 tỷ USD, tăng 12,2%; nhập siêu từ ASEAN 2,8 tỷ USD, tăng 159,9%.
[15] Tốc độ tăng CPI tháng Ba so với cùng kỳ năm trước các năm 2016-2021 lần lượt là: tăng 1,69%; tăng 4,65%; tăng 2,66%; tăng 2,7%; tăng 4,87%; tăng 1,16%.
[16] Tốc độ tăng CPI bình quân quý I so với cùng kỳ năm trước các năm 2002-2021 lần lượt là: tăng 2,95%; tăng 3,82%; tăng 4,23%; tăng 9,07%; tăng 8,31%; tăng 6,58%; tăng 16,37%; tăng 14,47%; tăng 8,51%; tăng 12,79%; tăng 15,95%; tăng 6,91%; tăng 4,83%; tăng 0,74%; tăng 1,25%; tăng 4,96%; tăng 2,82%; tăng 2,63%; tăng 5,56%; tăng 0,29%.
[17] Trong đó, giá thịt lợn trong tháng giảm 3,78% (tác động làm CPI chung giảm 0,13 điểm phần trăm) do dịch tả lợn châu Phi được kiểm soát, nguồn cung thịt lợn được đảm bảo; giá các sản phẩm chế biến từ thịt lợn tăng (giá thịt quay, giò chả giảm 1,37%; thịt chế biến khác giảm 0,22%); giá thịt và trứng gia cầm giảm lần lượt 1,59% và 2,91%; giá rau tươi giảm 5,91%; giá quả tươi và chế biến giảm 3,28%.
[18] Giá xăng, dầu tăng 6,89% (tác động làm CPI chung tăng 0,25 điểm phần trăm).
[19] Giá vận tải hành khách bằng đường bộ giảm 4,19%; giá vé tàu hỏa giảm 12,34%; dịch vụ trông giữ xe máy, ô tô giảm 1,88%.
[20] Trong đó: giá thịt lợn tăng 0,46%, giá thịt bò tăng 2,89%, giá thịt chế biến tăng 3,73%.
[21] Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa so với chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa.
[22] Số liệu được tính toán theo Khung khái niệm mới của Tổ chức lao động quốc tế, tiêu chuẩn ICLS 19.
[23] Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi quý I/2020 là 2,34%; tỷ lệ thiếu việc làm của lực lượng lao động trong độ tuổi quý I/2020 là 1,98%.
[24] Lao động có việc làm phi chính thức phi nông nghiệp bao gồm những người không làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản và thuộc một trong ba nhóm sau: (i) người làm công ăn lương thuộc khu vực chính thức không được ký hợp đồng lao động hoặc có hợp đồng có thời hạn nhưng không được cơ sở tuyển dụng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc; lao động gia đình tại cơ sở thuộc khu vực chính thức và thành viên hợp tác xã không có bảo hiểm xã hội bắt buộc; (ii) chủ cơ sở, lao động tự làm, lao động làm công ăn lương và lao động gia đình tại cơ sở thuộc khu vực phi chính thức; (iii) lao động tự làm phục vụ nhu cầu tự tiêu dùng của hộ gia đình và lao động làm thuê trong các hộ gia đình.
[25] Tính đến 6h00 ngày 28/3/2021 trên thế giới có 127.249,6 nghìn trường hợp mắc Covid-19 (2.788,4 nghìn trường hợp tử vong).
[26]Theo báo cáo nhanh từ Văn phòng Bộ Công an và Cục Hàng hải (Bộ Giao thông vận tải).

Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top