-
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
-
Nông nghiệp
Tính đến ngày 15/7, cả nước gieo cấy được 1.087 nghìn ha lúa mùa, bằng 102,5% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc gieo cấy 915,2 nghìn ha, bằng 103,2%; các địa phương phía Nam gieo cấy 171,8 nghìn ha, bằng 98,7%. Tiến độ gieo cấy lúa mùa ở các địa phương phía Bắc năm nay nhanh hơn cùng kỳ năm trước do lịch thời vụ sản xuất vụ xuân kết thúc sớm, ở phía Nam chậm hơn chủ yếu do ảnh hưởng của thời tiết khô hạn, đặc biệt tại các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
Đến trung tuần tháng Bảy, cả nước gieo cấy được 2.009,8 nghìn ha lúa hè thu, bằng 98,1% cùng kỳ năm trước, trong đó, các địa phương phía Bắc đạt 173,9 nghìn ha, bằng 99,9%; các địa phương phía Nam đạt 1.835,9 nghìn ha, bằng 98%. Hiện nay trà lúa hè thu sớm đã cho thu hoạch với diện tích đạt 563,2 nghìn ha, bằng 125,5% cùng kỳ năm trước.
Ảnh minh họa, nguồn Internet
Tính đến ngày 22/7/2019, dịch tả lợn châu Phi đã xảy ra tại 6.016 xã thuộc 558 huyện của 62 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tính đến tháng Bảy, đàn trâu cả nước giảm 3% so với cùng thời điểm năm trước; đàn bò tăng 2,6%; đàn gia cầm tăng 7,9%; đàn lợn giảm 16%.
b. Lâm nghiệp
Tính chung 7 tháng, diện tích rừng trồng tập trung ước tính đạt 124,8 nghìn ha, giảm 5,8% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác đạt 8.500 nghìn m3, tăng 4,3%; sản lượng củi khai thác đạt 10,7 triệu ste, giảm 1,7%.
Tính chung 7 tháng, diện tích rừng bị thiệt hại là 1.740,5 ha, gấp 2,3 lần cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 1.409,9 ha, gấp 3,8 lần; diện tích rừng bị chặt phá là 330,6 ha, giảm 10,5% so với cùng kỳ năm 2018.
-
Thủy sản
Tính chung 7 tháng năm 2019, sản lượng thủy sản ước tính đạt 4.521 nghìn tấn, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 2.321,2 nghìn tấn, tăng 6,3%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 2.199,8 nghìn tấn, tăng 4,9% (sản lượng khai thác biển đạt 2.099,6 nghìn tấn, tăng 5,1%).
-
Sản xuất công nghiệp
Tính chung 7 tháng năm 2019, IIP ước tính tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 10,7% của cùng kỳ năm 2018 nhưng cao hơn mức tăng 7,2% của cùng kỳ năm 2017 và năm 2016. Trong đó, ngành khai khoáng tăng nhẹ 1,1% (nhờ khai thác than tăng cao), đóng góp 0,2 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành chế biến, chế tạo tăng 10,7% (cùng kỳ năm trước tăng 12,9%), đóng góp 8,2 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 10%, đóng góp 0,9 điểm phần trăm.
Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất 7 tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước, đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp: Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 48%; sản xuất kim loại tăng 40,6%; khai thác quặng kim loại tăng 16,8%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 15,6%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế) tăng 12,9%; in, sao chép bản ghi các loại tăng 12,4%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 11,6%; sản xuất xe có động cơ tăng 11,4%; dệt tăng 11,1%...
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/7/2019 tăng 1,3% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 1,9% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó, lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 0,8%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 1,4%; doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 2,7.
-
Tình hình đăng ký doanh nghiệp
Tính chung 7 tháng năm nay, cả nước có 79,3 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 999,4 nghìn tỷ đồng, tăng 4,6% về số doanh nghiệ và tăng 29,6% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2018; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 12,6 tỷ đồng, tăng 23,9%, đạt mức cao nhất trong những năm trở lại đây, điều này dự báo “sức khỏe” tốt hơn của các doanh nghiệp ra nhập thị
trường. Nếu tính cả 1.476,9 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung thêm vào nền kinh tế trong 7 tháng năm 2019 là 2.476,3 nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, còn có 24,3 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 29,9% so với cùng kỳ năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 7 tháng lên 103,6 nghìn doanh nghiệp. Tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới trong 7 tháng năm nay là 743,9 nghìn người, tăng 19,3% so với cùng kỳ năm trước.
Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn trong 7 tháng năm nay là 23,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm trước; Có 24,8 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể. Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể trong 7 tháng năm 2019 là 9,3 nghìn doanh nghiệp, tăng 20%
so với cùng kỳ năm trước, trong đó có 8,4 nghìn doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng (chiếm 90,4% tổng số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể), tăng 18,9%.
-
Đầu tư
Tình hình thực hiện vốn đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước tháng Bảy và 7 tháng năm 2019 mặc dù đã có dấu hiệu tích cực khi đạt tỷ lệ thực hiện so với kế hoạch năm cao hơn so với cùng kỳ năm trước nhưng vẫn chưa cải thiện nhiều khi tiếp tục đạt mức tăng thấp nhất trong các năm giai đoạn 2015-2019. Trong khi đó, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn giữ đà phát triển với mức kỷ lục về số dự án đăng ký cấp mới 7 tháng và số vốn thực hiện cao nhất trong nhiều năm trở lại đây.
Tính chung 7 tháng năm nay, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 158,3 nghìn tỷ đồng, bằng 44,9% kế hoạch năm và tăng 3,9% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2018 bằng 43,3% và tăng 9,7%), gồm có:
- Vốn Trung ương quản lý đạt 19,5 nghìn tỷ đồng, bằng 40,2% kế hoạch năm và giảm 29,9% so với cùng kỳ năm trước. Vốn địa phương quản lý đạt 138,8 nghìn tỷ đồng, bằng 45,7% kế hoạch năm và tăng 11,4% so với cùng kỳ năm 2018.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/7/2019 thu hút 2.064 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 8.272,4 triệu USD, tăng 24,6% về số dự án và giảm 37,4% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2018. Bên cạnh đó, có 791 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 3.425,6 triệu USD, giảm 30,8% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, tổng số vốn đăng ký cấp mới và vốn tăng thêm trong 7 tháng năm nay đạt 11.698 triệu USD, giảm 35,6% so với cùng kỳ năm 2018. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 7 tháng ước tính đạt 10,6 tỷ USD, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm 2018. Trong 7 tháng còn có 4.387 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn là 8,52 tỷ USD, tăng 77,8% so với cùng kỳ năm 2018.
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 7 tháng năm nay có 90 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn của phía Việt Nam là 180,1 triệu USD; 21 dự án điều chỉnh vốn với số vốn tăng thêm là 97,3 triệu USD. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và tăng thêm) 7 tháng năm 2019 đạt 277,4 triệu USD.
-
Thu, chi ngân sách Nhà nước
Trong 7 tháng năm 2019, thu ngân sách Nhà nước duy trì tiến độ ổn định, chi ngân sách bảo đảm đáp ứng kịp thời các yêu cầu đầu tư phát triển, chi trả nợ, bảo đảm quốc phòng, an ninh, an sinh xã hội và hoạt động của bộ máy Nhà nước.
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/7/2019 ước tính đạt 777,7 nghìn tỷ đồng, bằng 55,1% dự toán năm, trong đó thu nội địa 620,5 nghìn tỷ đồng, bằng 52,9%; thu từ dầu thô 31,1 nghìn tỷ đồng, bằng 69,7%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 123,9 nghìn tỷ đồng, bằng 65,5%.
Tổng đầu năm đến thời điểm 15/7/2019 ước tính đạt 726,2 nghìn tỷ đồng, bằng 44,5% dự toán năm, trong đó chi thường xuyên đạt 522,8 nghìn tỷ đồng, bằng 52,3%; chi đầu tư phát triển 130,5 nghìn tỷ đồng, bằng 30,4%; chi trả nợ lãi 65,2 nghìn tỷ đồng, bằng 52,2%.
-
Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch
-
Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 7 tháng năm 2019 đạt tốc độ tăng cao so với cùng kỳ năm trước, sức mua tiêu dùng tăng cao, lượng cung hàng hóa trên thị trường dồi dào, đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người dân.
Tính chung 7 tháng năm 2019, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 2.804,8 nghìn tỷ đồng, tăng 11,6% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 8,74% (cùng kỳ năm 2018 tăng 8,72%).
-
Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa 7 tháng năm 2019 ước tính đạt 288,47 tỷ USD với kim ngạch xuất khẩu tăng khá so với cùng kỳ năm trước.
Xuất khẩu hàng hóa
Tính chung 7 tháng năm 2019, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 145,13 tỷ USD, tăng 7,5% so với
cùng kỳ năm 2018. Đáng chú ý là khu vực kinh tế trong nước đạt 44 tỷ USD, tăng 12,2% cao hơn tốc độ tăng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và tỷ trọng khu vực kinh tế trong nước có xu hướng tăng lên, chiếm 30,3% tổng kim ngạch xuất khẩu (cùng kỳ năm trước là 29%); khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 101,13 tỷ USD, tăng 5,6%, chiếm 69,7% (tỷ trọng giảm 1,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước).
Trong 7 tháng có 24 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 88,1% tổng kim ngạch xuất khẩu (4 mặt hàng đạt giá trị trên 10 tỷ USD, chiếm 51,6%), trong đó điện thoại và linh kiện có giá trị xuất khẩu lớn nhất đạt 27,3 tỷ USD, chiếm 18,8% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 18,6 tỷ USD, tăng 14,9%; hàng dệt may đạt 18,3 tỷ USD, tăng 10,5%; giày dép đạt 10,4 tỷ USD, tăng 13,8%...
Nhập khẩu hàng hóa
Tính chung 7 tháng năm 2019, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính đạt 143,34 tỷ USD, tăng 8,3% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 60,83 tỷ USD, tăng 12,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 82,51 tỷ USD, tăng 5,3%.
Trong 7 tháng có 28 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 85,8% tổng kim ngạch nhập khẩu (2 mặt hàng đạt giá trị trên 20 tỷ USD, chiếm 34,2%), trong đó một số mặt hàng tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 28,2 tỷ USD (chiếm 19,7% tổng kim ngạch nhập khẩu), tăng 19%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 20,8 tỷ USD, tăng 12,7%; vải đạt 7,8 tỷ USD, tăng 4,6%; chất dẻo đạt 5,2 tỷ USD, tăng 1,5%; ô tô đạt 4,3 tỷ USD, tăng 69%...
Tính chung 7 tháng năm 2019 ước tính xuất siêu 1,8 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 2,6 tỷ USD), trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 16,8 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 18,6 tỷ USD.
-
Vận tải hành khách và hàng hóa
Hoạt động vận tải trong 7 tháng năm 2019 đạt mức tăng khá so với cùng kỳ năm trước ở hầu hết các ngành đường, đặc biệt ngành đường bộ và đường hàng không, riêng vận tải đường sắt tiếp tục xu hướng giảm cả về vận tải hành khách và hàng hóa.
Tính chung 7 tháng năm 2019, vận tải hành khách đạt 2.923,5 triệu lượt khách, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước và 134,8 tỷ lượt khách.km, tăng 9,7%, trong đó vận tải trong nước đạt 2.912,5 triệu lượt khách, tăng 10,1% và 104,6 tỷ lượt khách.km, tăng 11,1%; vận tải ngoài nước đạt gần 11 triệu lượt khách, tăng 4,4% và 30,2 tỷ lượt khách.km, tăng 4,9%.
Tính chung 7 tháng, vận tải hàng hóa đạt 962,6 triệu tấn, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước và 183,4 tỷ tấn.km, tăng 7,2%, trong đó vận tải trong nước đạt 943,3 triệu tấn, tăng 8,8% và 103 tỷ tấn.km, tăng 10,4%; vận tải ngoài nước đạt 19,3 triệu tấn, tăng 3% và 80,4 tỷ tấn.km, tăng 3,4%.
e) Khách quốc tế đến Việt Nam
Tính chung 7 tháng năm nay, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 9.796,8 nghìn lượt người, tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng đường hàng không đạt 7.704,9 nghìn lượt người, tăng 4,7%; bằng đường bộ đạt 1.934,3 nghìn lượt người, tăng 25,2%; bằng đường biển đạt 157,6 nghìn lượt người, giảm 11,3%.
Trong 7 tháng, khách đến từ châu Á chiếm tỷ trọng lớn và có tốc độ tăng cao đạt 7.600,9 nghìn lượt người, chiếm 77,6% tổng số khách du lịch đến nước ta, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước. Khách đến từ châu Âu ước tính đạt 1.298,1 nghìn lượt người, tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước.
-
Một số tình hình xã hội
-
Thiếu đói trong nông dân
Tính chung 7 tháng năm 2019, cả nước có 65,7 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 31,7% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 265,6 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 30,7%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm đến nay, các cấp, các ngành, các tổ chức từ Trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói gần 3,9 nghìn tấn gạo.
-
Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
Tính chung 7 tháng năm 2019, cả nước có 96,4 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 22,9 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 333 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do vi rút; 13 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do mô cầu; 31 nghìn trường hợp sốt phát ban nghi sởi và 1.372 người bị ngộ độc thực phẩm.
Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 18/7/2019 là 209,5 nghìn người và số trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS là 96,69 nghìn người; số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 98,35 nghìn người.
-
Tai nạn giao thông
Tính chung 7 tháng năm 2019, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 9.820 vụ tai nạn giao thông làm 4.467 người chết, 2.794 người bị thương và 4.676 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông trong 7 tháng năm nay giảm 5,1%; số người chết giảm 5,3%; số người bị thương giảm 2,2% và số người bị thương nhẹ giảm 10,9%. Bình quân 1 ngày trong 7 tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 46 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 24 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 22 vụ va chạm giao thông, làm 21 người chết, 13 người bị thương và 22 người bị thương nhẹ.
-
Thiệt hại do thiên tai
Tính chung 7 tháng, thiên tai làm 34 người chết và mất tích, 47 người bị thương; 156 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi; hơn 3 nghìn ngôi nhà bị tốc mái và hư hỏng; 3,7 nghìn ha lúa và hoa màu bị hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai xảy ra trong 7 tháng ước tính 239 tỷ đồng.
-
Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ
Tính chung 7 tháng, cả nước xảy ra 2.404 vụ cháy, nổ, làm 65 người chết và 113 người bị thương, thiệt hại ước tính khoảng 781 tỷ đồng./.
(Lược trích Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng bảy và 7 tháng năm 2019 của Tổng cục Thống kê)