Tình hình kinh tế - xã hội cả nước 4 tháng đầu năm 2021

29/04/2021 - 03:25 PM
1. Sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
 
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tháng 4/2021 diễn ra trong điều kiện thời tiết thuận lợi cho cây trồng, vật nuôi sinh trưởng và phát triển. Các địa phương phía Bắc tập trung chăm sóc cây trồng vụ đông xuân; tại các địa phương phía Nam tập trung thu hoạch lúa, hoa màu vụ đông xuân và gieo trồng lúa hè thu. Chăn nuôi gia cầm phát triển tốt, chăn nuôi lợn đang đà hồi phục. Thị trường tiêu thụ sản phẩm nông sản, lâm sản, thủy sản được khơi thông, mở rộng.
 
a) Nông nghiệp
 
Tính đến ngày 15/4, cả nước gieo cấy được 3.001,1 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 99,2% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc gieo cấy 1.082,6 nghìn ha, bằng 98,6%; các địa phương phía Nam gieo cấy 1.918,5 nghìn ha, bằng 99,6%. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long diện tích gieo cấy lúa đông xuân năm nay đạt 1.519,7 nghìn ha, giảm 26,7 nghìn ha so với vụ đông xuân năm trước chủ yếu do ảnh hưởng của hạn mặn nên các địa phương chủ động không xuống giống lúa mà chuyển sang trồng rau màu, cây ăn quả cho giá trị kinh tế cao hơn hoặc nuôi trồng thủy sản. Một số tỉnh có diện tích lúa đông xuân giảm nhiều là: Sóc Trăng giảm 9,8 nghìn ha; Tiền Giang giảm 6 nghìn ha; Kiên Giang giảm 5,4 nghìn ha.
 
Tại các địa phương phía Bắc, do thực hiện tốt công tác chăm sóc ngay từ khi mới gieo cấy nên hầu hết diện tích lúa đông xuân sinh trưởng và phát triển tốt, đang thời kỳ đứng cái, làm đòng. Tuy nhiên, thời tiết trong thời gian tới nóng dần nên bệnh khô vằn, đạo ôn lá, rầy các loại rất dễ phát sinh, ngành Nông nghiệp cần thường xuyên kiểm tra đồng ruộng và áp dụng các biện pháp phòng trừ kịp thời các ổ sâu bệnh, tránh lây lan trên diện rộng.
 
Đến trung tuần tháng Tư, các địa phương phía Nam đã thu hoạch được 1.577,4 nghìn ha lúa đông xuân, chiếm 82,2% diện tích gieo trồng và bằng 96,7% cùng kỳ năm trước. Trong đó, vùng Đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch được 1.396,5 nghìn ha, chiếm 91,9% diện tích gieo trồng và bằng 96,9% cùng kỳ năm 2020.
 
Trên những diện tích lúa đông xuân đã thu hoạch, các địa phương tiến hành vệ sinh đồng ruộng, cày ải, phơi đất để xuống giống vụ hè thu. Tính đến 15/4, các địa phương phía Nam gieo cấy được 300 nghìn ha lúa hè thu, bằng 98% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 293 nghìn ha, bằng 99,8%. Hiện nay, lúa hè thu đang ở giai đoạn mạ đến làm đòng, cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt. Tuy nhiên, vụ hè thu thường chịu ảnh hưởng của nắng nóng, hạn hán, có thể xảy ra tình trạng thiếu nước tại các tỉnh Trung Bộ, Tây Nguyên trong các tháng mùa khô. Do vậy, các địa phương cần áp dụng kỹ thuật canh tác tiên tiến, bảo đảm nguồn nước tưới cho cây lúa, rà soát cơ cấu mùa vụ và điều chỉnh thời vụ gieo trồng đảm bảo khung thời vụ tốt nhất cho vụ mùa tiếp theo.
 
Tính đến giữa tháng Tư, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 382 nghìn ha ngô, bằng 101,8% cùng kỳ năm trước; 59,7 nghìn ha khoai lang, bằng 95,1%; 14,1 nghìn ha đậu tương, bằng 90,4%; 115,5 nghìn ha lạc, bằng 97%; 596,8 nghìn ha rau đậu, bằng 103%. Nhìn chung, cây màu các loại được gieo trồng đúng thời vụ, sinh trưởng và phát triển tốt.
 
Hiện nay, dịch lở mồm long móng, đặc biệt là dịch viêm da nổi cục ở trâu bò đang diễn biến phức tạp tại một số địa phương vì khả năng lây lan bệnh nhanh. Chính quyền địa phương cần tăng cường các biện pháp kiểm soát, phòng chống dịch bệnh, chủ động lên kế hoạch tiêm vắc-xin phòng bệnh viêm da nổi cục khi vắc-xin được lưu hành[1]. Ước tính tổng số trâu của cả nước tháng Tư năm 2021 giảm 2,4% so với cùng thời điểm năm 2020; tổng số bò tăng 1%. Chăn nuôi lợn tiếp tục đà hồi phục, đàn gia cầm phát triển tốt, tuy nhiên người chăn nuôi vẫn cần nâng cao các biện pháp phòng chống và kiểm soát dịch bệnh. Ước tính tổng số lợn của cả nước tháng Tư năm 2021 tăng 11,1% so với cùng thời điểm năm trước, tổng số gia cầm tăng 7,4%. Tính đến ngày 23/4/2021, cả nước không còn dịch tai xanh; dịch cúm gia cầm còn ở Hà Nội, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Tuyên Quang, Hà Tĩnh, Quảng Nam; dịch lở mồm long móng còn ở Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Quảng Trị, Đắk Lắk, Phú Yên, Quảng Ngãi; dịch tả lợn châu Phi còn ở 22 địa phương[2] và dịch viêm da nổi cục còn ở 21 địa phương[3] chưa qua 21 ngày.
 
b) Lâm nghiệp
 
Sản xuất lâm nghiệp trong tháng Tư phát triển tốt ở lĩnh vực lâm sinh và khai thác lâm sản, thời tiết thuận lợi đẩy nhanh tiến độ trồng rừng mới tập trung. Tháng 4 năm 2021, diện tích rừng trồng mới tập trung của cả nước ước đạt 28,8 nghìn ha, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 8,6 triệu cây, tăng 5,8%; sản lượng gỗ khai thác đạt 1.164 nghìn m3, tăng 7,2%; sản lượng củi khai thác đạt 1,5 triệu ste, bằng cùng kỳ năm trước. Các tỉnh có sản lượng gỗ khai thác ước tính tăng cao: Thanh Hóa đạt 76,5 nghìn m3, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm trước; Quảng Trị đạt 86,5 nghìn m3, tăng 13,9%.
 
Ước tính 4 tháng đầu năm, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước đạt 62 nghìn ha, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 35 triệu cây, tăng 2,8%; sản lượng gỗ khai thác đạt 4.159,9 nghìn m3, tăng 4,9%; sản lượng củi khai thác đạt 6 triệu ste, bằng cùng kỳ năm trước.
 
Trong tháng Tư, cả nước có 118,7 ha rừng bị thiệt hại[4], giảm 17,9% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm diện tích rừng bị cháy là 18,9 ha, giảm 78,2%, tuy nhiên vẫn xảy ra cháy rừng nhiều ở một số địa phương như Kon Tum 13 ha, Lạng Sơn 2,14 ha, Quảng Nam 1,47 ha; diện tích rừng bị chặt phá là 99,8 ha, tăng 72,5%, một số tỉnh có diện tích rừng bị chặt phá cao là Đắk Lắc 46 ha, Đắk Nông 11,7 ha, Bắc Kạn 5,8 ha, Nghệ An 5,2 ha. Tính chung 4 tháng đầu năm, diện tích rừng bị thiệt hại là 483,6 ha, tăng 19,5% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm diện tích rừng bị cháy là 134 ha, giảm 21,2%; diện tích rừng bị chặt phá là 349,5 ha, tăng 49%.
 
c) Thủy sản
 
Sản lượng thủy sản tháng Tư ước tính đạt 687,2 nghìn tấn, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt 505,4 nghìn tấn, tăng 2,2%; tôm đạt 73,9 nghìn tấn, tăng 2%; thủy sản khác đạt 108 nghìn tấn, tăng 1,4%.
 
Ước tính tháng 4 năm 2021, sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 329,6 nghìn tấn, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt 231,6 nghìn tấn, tăng 1,5%; tôm đạt 59,8 nghìn tấn, tăng 2,6%; thủy sản khác đạt 38,2 nghìn tấn, tăng 3,7%. Thị trường tiêu thụ cá tra có nhiều khởi sắc, các doanh nghiệp chế biến lớn tại Đồng Bằng sông Cửu Long ký thêm nhiều hợp đồng mới, giá cá tra nguyên liệu duy trì ở mức ổn định[5]. Sản lượng cá tra trong tháng ước tính đạt 106,3 nghìn tấn, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước. Nhiều diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng được chuyển đổi từ mô hình nuôi thâm canh sang mô hình nuôi siêu thâm canh. Tôm sú có thời gian nuôi lâu hơn tôm thẻ, hiệu quả kinh tế lại thấp hơn nên người dân có xu hướng chuyển từ nuôi tôm sú qua nuôi tôm thẻ. Tình hình xuất khẩu tôm thẻ chân trắng trong tháng khả quan hơn so với cùng kỳ năm trước do tình hình dịch Covid-19 trong nước được khống chế tốt, các Hiệp định thương mại tự do có hiệu lực đã kích cầu xuất khẩu. Sản lượng tôm thẻ chân trắng tháng Tư ước tính đạt 35,8 nghìn tấn, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng tôm sú đạt 17,9 nghìn tấn, giảm 0,5%.
 
Tình hình khai thác thủy sản trong tháng Tư diễn ra trong điều kiện thời tiết thuận lợi, giá các loại hải sản ổn định ở mức cao; số tàu có công suất lớn tham gia khai thác xa bờ thời gian kéo dài nên sản lượng khai thác biển tăng. Sản lượng thủy sản khai thác tháng 4 năm 2021 ước đạt 357,7 nghìn tấn, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng khai thác biển đạt 342,9 nghìn tấn, tăng 2,2%.
 
Tính chung 4 tháng đầu năm, sản lượng thủy sản ước đạt 2.484,9 nghìn tấn, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng nuôi trồng đạt 1.269,9 nghìn tấn, tăng 2,8%; sản lượng khai thác đạt 1.215,1 nghìn tấn, tăng 1,4% (sản lượng khai thác biển đạt 1.160,4 nghìn tấn, tăng 1,4%).
 
2. Sản xuất công nghiệp
 
Sản xuất công nghiệp tháng 4/2021 ước tính tăng cao 24,1% so với cùng kỳ năm trước[6] trong bối cảnh dịch Covid-19 được kiểm soát tốt, đồng thời các Hiệp định thương mại tự do phát huy hiệu quả nên hoạt động sản xuất kinh doanh sôi động trở lại. Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 10% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành chế biến, chế tạo tăng 12,7%.
 
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 4/2021 ước tính tăng 1,1% so với tháng trước và tăng 24,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng tăng 3,8% và tăng 1,8%; ngành chế biến, chế tạo tăng 0,5% và tăng 29,1%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 2,6% và tăng 16,4%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,4% và tăng 11,1%.
 
Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, IIP ước tính tăng 10% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 12,7% (cùng kỳ năm trước tăng 9,7%), đóng góp 10,2 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 6,6% (cùng kỳ năm trước giảm 6,5%), đóng góp 0,6 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,5% (cùng kỳ năm trước giảm 0,3%), đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 5,7% (cùng kỳ năm trước giảm 6,8%), làm giảm 0,9 điểm phần trăm trong mức tăng chung.
 
Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành trọng điểm có chỉ số sản xuất 4 tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất kim loại tăng 37,9%; sản xuất xe có động cơ tăng 32,9%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 17,6%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 16,9%; sản xuất đồ uống tăng 16,1%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải, tái chế phế liệu tăng 15,7%; sản xuất thiết bị điện tăng 15,3%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 15%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 14,1%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 12,9%. Ở chiều ngược lại, một số ngành có chỉ số giảm: Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế giảm 2%; thoát nước và xử lý nước thải giảm 2,2%; khai thác than cứng và than non giảm 2,8%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 3,5%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 8,9%.
 
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 4 tháng đầu năm 2021 tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Thép cán tăng 61,8%; ô tô tăng 52,5%; linh kiện điện thoại tăng 29,2%; điện thoại di động tăng 21,3%; ti vi các loại tăng 20,9%; xe máy tăng 20%; bia các loại và sữa bột cùng tăng 18,1%; sơn hóa học tăng 17,5%; sắt, thép thô tăng 17,4%; giày, dép da tăng 13,3%; phân hỗn hợp NPK tăng 12%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 10,1%. Một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước: Dầu mỏ thô khai thác giảm 9%; khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 8,8%; bột ngọt giảm 6,8%; phân u rê giảm 6,3%; xăng dầu các loại giảm 3,9%; than sạch giảm 2,8%; đường kính giảm 1,3%.
 
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/4/2021 tăng 1,5% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 1,8% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 0,2% và giảm 2,9%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 1,3% và tăng 1,1%; doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 1,8% và tăng 3%. Theo ngành hoạt động, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng tăng 0,2% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 3,2% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 1,6% và tăng 2,1%; ngành sản xuất và phân phối điện không đổi và tăng 0,9%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,1% và giảm 0,4%.
 
3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp[7]
 
Doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong tháng Tư năm 2021 tăng cả về số lượng và vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, số lượng doanh nghiệp thành lập mới tăng 17,5% so với cùng kỳ năm 2020, tăng cao nhất trong các năm 2017-2021[8] và tăng ở tất cả các ngành kinh tế; vốn đăng ký tăng 41%. Cho thấy sau thành công thực hiện mục tiêu kép vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế - xã hội”, niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp vào đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế của Đảng, của Chính phủ trong nhiệm kỳ 2021-2025 tăng lên. Đây là những tín hiệu tích cực về triển vọng phát triển doanh nghiệp trong thời gian tới.
 
Trong tháng 4/2021, cả nước có gần 14,9 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 179,9 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký 94,6 nghìn người, tăng 33,1% về số doanh nghiệp, tăng 59,1% về vốn đăng ký và tăng 30% về số lao động so với tháng 3/2021[9]. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong tháng đạt 12,1 tỷ đồng, tăng 19,6% so với tháng trước và tăng 1,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng, cả nước còn có 5.745 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 26,8% so với tháng trước và tăng 50,8% so với cùng kỳ năm trước; 4.598 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 107,8% và tăng 11,6%; 5.608 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 62,2% và tăng 158,9%; 1.541 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 4,2% và tăng 57,2%.
 
Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, cả nước có gần 44,2 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 627,7 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 340,3 nghìn lao động, tăng 17,5% về số doanh nghiệp, tăng 41% về vốn đăng ký và tăng 7,8% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 4 tháng đạt 14,2 tỷ đồng, tăng 20% so với cùng kỳ năm trước. Nếu tính cả 792,9 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 14,9 nghìn doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 4 tháng đầu năm 2021 là 1.420,6 nghìn tỷ đồng, tăng 26,1% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, còn có gần 19,3 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 8% so với cùng kỳ năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 4 tháng đầu năm 2021 lên 63,4 nghìn doanh nghiệp, trung bình mỗi tháng có gần 15,9 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.
 
Theo khu vực kinh tế, trong 4 tháng đầu năm nay có 694 doanh nghiệp thành lập mới thuộc khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng 24,4% so với cùng kỳ năm 2020; 12,2 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực công nghiệp và xây dựng, tăng 15,2%; 31,3 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực dịch vụ, tăng 18,2%. Trong 4 tháng đầu năm 2021 số doanh nghiệp thành lập mới tăng ở tất cả các lĩnh vực: Kinh doanh bất động sản tăng 56,5% so với cùng kỳ năm trước; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 41,8%; giáo dục và đào tạo tăng 32,4%; vận tải kho bãi tăng 31,1%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 17,2%; khai khoáng tăng 16,8%; bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy tăng 15,5%; nghệ thuật, vui chơi giải trí tăng 15,3%; xây dựng tăng 14,5%; khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn, thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác tăng 13,7%; tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 12,6%; thông tin và truyền thông tăng 9,6%; dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác tăng 5,1%; dịch vụ lưu trú ăn uống tăng 3,6%; sản xuất phân phối điện, nước, gas tăng 3%.
 
Cũng trong 4 tháng đầu năm nay, có 51,5 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 23,3% so với cùng kỳ năm 2020, bao gồm: 28,3 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 24,9% so với cùng kỳ năm trước; 16,4 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 17,5%; 6,7 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 32,2%, trong đó có 6.024 doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, tăng 31,7%; 72 doanh nghiệp có vốn trên 100 tỷ đồng, giảm 4%. Doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực: Bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy có 2.487 doanh nghiệp; công nghiệp chế biến, chế tạo có 780 doanh nghiệp; xây dựng có 611 doanh nghiệp; khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác có 413 doanh nghiệp; dịch vụ lưu trú và ăn uống có 382 doanh nghiệp; kinh doanh bất động sản có 345 doanh nghiệp; dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng, các dịch vụ hỗ trợ khác có 324 doanh nghiệp; vận tải, kho bãi có 317 doanh nghiệp; giáo dục, đào tạo có 227 doanh nghiệp; thông tin truyền thông có 223 doanh nghiệp; sản xuất phân phối điện, nước, gas 143 doanh nghiệp. Trung bình mỗi tháng có gần 12,9 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
 
4. Đầu tư
 
Các Bộ, ngành và địa phương tập trung đẩy mạnh thực hiện vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước trong bối cảnh dịch Covid-19 được kiểm soát tốt tại Việt Nam. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Tư ước tính đạt 6,6% so với kế hoạch năm 2021. So với cùng kỳ năm trước, tốc độ tăng vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Tư và 4 tháng năm nay đạt mức cao nhất trong giai đoạn 2017-2021[10]. Về đầu tư nước ngoài trong 4 tháng đầu năm, tổng số dự án đăng ký cấp mới giảm so với cùng kỳ năm 2020 nhưng vốn đăng ký cấp mới bình quân 1 dự án trong 4 tháng đầu năm 2021 tăng cao, đạt 18,7 triệu USD/dự án (4 tháng đầu năm 2020 đạt 6,9 triệu USD/dự án).
 
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 4/2021 ước tính đạt 30,4 nghìn tỷ đồng, tăng 23,9% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn Trung ương quản lý 5,3 nghìn tỷ đồng, tăng 44,1%; vốn địa phương quản lý 25,1 nghìn tỷ đồng, tăng 20,3%. Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 98,7 nghìn tỷ đồng, bằng 21,5% kế hoạch năm và tăng 16,3% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 bằng 16,6% và tăng 14,5%), cụ thể:
 
- Vốn Trung ương quản lý đạt 15,1 nghìn tỷ đồng, bằng 19,6% kế hoạch năm và tăng 25,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Bộ Giao thông Vận tải đạt 6.947 tỷ đồng, bằng 20,1% và tăng 78,9%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 807 tỷ đồng, bằng 18,8% và tăng 4,5%; Bộ Y tế 482 tỷ đồng, bằng 19,4% và giảm 50,7%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 287 tỷ đồng, bằng 16,9% và giảm 35,2%; Bộ Tài nguyên và Môi trường 194 tỷ đồng, bằng 18,8% và tăng 13,3%; Bộ Xây dựng 184 tỷ đồng, bằng 27,4% và tăng 145,8%; Bộ Công Thương 164 tỷ đồng, bằng 15,2% và tăng 121,3%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 131 tỷ đồng, bằng 15,8% và tăng 18,7%; Bộ Thông tin và Truyền thông 70 tỷ đồng, bằng 13,4% và tăng 159,2%; Bộ Khoa học và Công nghệ 65 tỷ đồng, bằng 20,7% và tăng 47,4%.
 
- Vốn địa phương quản lý đạt 83,6 nghìn tỷ đồng, bằng 21,9% kế hoạch năm và tăng 14,8% so với cùng kỳ năm 2020, trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 57,6 nghìn tỷ đồng, bằng 21,5% và tăng 18,7%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 22 nghìn tỷ đồng, bằng 22% và tăng 8,7%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 4 nghìn tỷ đồng, bằng 28,8% và giảm 1,4%. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước 4 tháng đầu năm 2021 của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 11.442 tỷ đồng, bằng 22,5% kế hoạch năm và tăng 19,8% so với cùng kỳ năm trước; thành phố Hồ Chí Minh 6.524 tỷ đồng, bằng 18,3% và tăng 35,6%; Quảng Ninh 4.528 tỷ đồng, bằng 25,6% và tăng 65,5%; Bà Rịa - Vũng Tàu 2.935 tỷ đồng, bằng 27% và tăng 29,1%; Thanh Hóa 2.748 tỷ đồng, bằng 29,8% và tăng 4,5%; Hải Phòng 1.979 tỷ đồng, bằng 14,7% và tăng 10,5%; Đà Nẵng 1.851 tỷ đồng, bằng 25,6% và tăng 82,5%; Nghệ An 1.735 tỷ đồng, bằng 26,6% và giảm 15,3%; Bắc Ninh 1.689 tỷ đồng, bằng 28% và tăng 2,6%.
 
Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày 20/4/2021 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 12,25 tỷ USD, giảm 0,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 451 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 8,46 tỷ USD, giảm 54,2% về số dự án và tăng 24,7% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; có 263 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 2,75 tỷ USD, giảm 10,6%; có 1.151 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn 1,05 tỷ USD, giảm 57,8%. Trong tổng số lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 290 lượt góp vốn làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị vốn góp là 423,6 triệu USD và 861 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 623,5 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 4 tháng đầu năm ước tính đạt 5,5 tỷ USD, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 3.970 triệu USD, chiếm 72,2% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 775,6 triệu USD, chiếm 14,1%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 376,3 triệu USD, chiếm 6,8%.
 
Trong 4 tháng đầu năm, ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí được cấp phép mới đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký đạt gần 5 tỷ USD, chiếm 59% tổng số vốn đăng ký cấp mới; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 2,41 tỷ USD, chiếm 28,5%, các ngành còn lại đạt 1,06 tỷ USD, chiếm 12,5%. Nếu tính cả vốn đăng ký bổ sung của các dự án đã cấp phép từ các năm trước thì ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt gần 5 tỷ USD (không có vốn đăng ký bổ sung), chiếm 44,5% tổng số vốn; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 4,77 tỷ USD, chiếm 42,6%; các ngành còn lại đạt 1,44 tỷ USD chiếm 12,9%. Đối với hình thức góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt hơn 417,2 triệu USD, chiếm 39,8% tổng vốn; bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và kinh doanh bất động sản lần lượt đạt 140,1 triệu USD và 139,9 triệu USD, cùng chiếm 13,4%; các ngành còn lại đạt 350 triệu USD, chiếm 33,4%. Một số dự án lớn trong 4 tháng đầu năm như: Dự án Nhà máy điện LNG Long An I và II (Xin-ga-po) với tổng vốn đăng ký trên 3,1 tỷ USD; Dự án Nhà máy nhiệt điện Ô Môn II (Nhật Bản) với tổng vốn đăng ký trên 1,31 tỷ USD; Dự án LG Display Hải Phòng (Hàn Quốc), điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 750 triệu USD; Dự án Công nghệ tế bào quang điện Jinko Solar PV Việt Nam (Hồng Công) với tổng vốn đầu tư đăng ký 498 triệu USD.
 
Trong số 67 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong 4 tháng đầu năm, Xin-ga-po là nhà đầu tư lớn nhất với 4.413,8 triệu USD, chiếm 52,2% tổng vốn đăng ký cấp mới; Nhật Bản 1.796,3 triệu USD, chiếm 21,2%; Đặc khu hành chính Hồng Công (Trung Quốc) 774,9 triệu USD, chiếm 9,2%; Trung Quốc 576,2 triệu USD, chiếm 6,8%; Hàn Quốc 248,7 triệu USD, chiếm 2,9%; Hoa Kỳ 148,8 triệu USD, chiếm 1,8%.
 
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 4 tháng đầu năm có 18 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn đầu tư của phía Việt Nam là 142,8 triệu USD, gấp 2,7 lần so với cùng kỳ[11]; có 9 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn tăng thêm đạt 403,2 triệu USD, gấp 25,5 lần so với cùng kỳ[12]. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và tăng thêm) 4 tháng đạt 545,9 triệu USD, gấp 7,9 lần so với cùng kỳ[13], trong đó hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ đạt 270,8 triệu USD, chiếm 49,6%; lĩnh vực bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 147,8 triệu USD, chiếm 27,1% tổng vốn đầu tư; nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản đạt 76,9 triệu USD, chiếm 14,1%. Trong 4 tháng đầu năm có 15 quốc gia và vùng lãnh thổ nhận đầu tư của Việt Nam, trong đó Hoa Kỳ là nước dẫn đầu với 302,3 triệu USD, chiếm 55,4%; đứng thứ hai là Cam-pu-chia 89,1 triệu USD, chiếm 16,3%; tiếp theo lần lượt là Pháp, Ca-na-da, Đức, Hà Lan cùng đạt 32 triệu, cùng chiếm 5,9%.
 
5. Thu, chi ngân sách Nhà nước
 
Hoạt động thu, chi ngân sách Nhà nước trong 15 ngày đầu tháng Tư đạt được nhiều kết quả tích cực. Thu ngân sách tăng khá so với cùng kỳ tháng trước; chi ngân sách đáp ứng kịp thời, đầy đủ các nhiệm vụ chi phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước theo dự toán được giao và tiến độ triển khai thực hiện, đồng thời đảm bảo thanh toán các khoản nợ đến hạn.
 
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/4/2021 ước tính đạt 462,8 nghìn tỷ đồng, bằng 34,4% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 382,2 nghìn tỷ đồng, bằng 33,7%; thu từ dầu thô 9,8 nghìn tỷ đồng, bằng 42,2%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 69,7 nghìn tỷ đồng, bằng 39,1%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 44,1 nghìn tỷ đồng, bằng 29,7% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 70,9 nghìn tỷ đồng, bằng 35,6%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 95,3 nghìn tỷ đồng, bằng 40,1%; thu thuế thu nhập cá nhân 45,2 nghìn tỷ đồng, bằng 41,9%; thu thuế bảo vệ môi trường 14,7 nghìn tỷ đồng, bằng 22,8%; thu tiền sử dụng đất 47,9 nghìn tỷ đồng, bằng 43%.
 
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/4/2021 ước tính đạt 400,3 nghìn tỷ đồng, bằng 23,7% dự toán năm, trong đó chi thường xuyên đạt 289,4 nghìn tỷ đồng, bằng 27,9%; chi đầu tư phát triển 74,8 nghìn tỷ đồng, bằng 15,7%; chi trả nợ lãi 35,7 nghìn tỷ đồng, bằng 32,5%.
 
6. Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch
 
a) Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
 
Dịch Covid-19 được kiểm soát tốt nên tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Tư tăng mạnh 30,9% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 giảm 21,1%) do tháng 4/2020 cả nước thực hiện giãn cách xã hội, hoạt động mua sắm hàng hóa, chi tiêu của người tiêu dùng giảm mạnh, nhiều cơ sở lưu trú, ăn uống, lữ hành phải tạm đóng cửa. Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 10% so với cùng kỳ năm trước.
 
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Tư ước tính đạt 409,4 nghìn tỷ đồng, tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 30,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 324,2 nghìn tỷ đồng, tăng 1,9% và tăng 22,2%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 41,5 nghìn tỷ đồng, tăng 5,8% và tăng 92,3%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 899,6 tỷ đồng, tăng 9,6% và gấp 17,5 lần; doanh thu dịch vụ khác đạt 42,8 nghìn tỷ đồng, tăng 1,8% và tăng 66%.
 
Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 1.695,6 nghìn tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 giảm 2,8%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 9,03% (cùng kỳ năm 2020 giảm 7,76%).
 
Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa 4 tháng ước tính đạt 1.352,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 79,8% tổng mức và tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 tăng 1,3%). Trong đó, nhóm hàng may mặc tăng 11,8%; lương thực, thực phẩm tăng 11,5%; phương tiện đi lại tăng 11,1%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 9,5%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 5,2%. Doanh thu bán lẻ hàng hóa 4 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương như sau: Vĩnh Phúc tăng 24%; Hà Tĩnh tăng 17%; Hải Phòng tăng 9,5%; Hà Nội và Cần Thơ cùng tăng 8,4%; Đà Nẵng tăng 8%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 5,3%.
 
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 4 tháng đầu năm ước tính đạt 164,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 9,7% tổng mức và tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 giảm 20,3%) do các cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú, ăn uống đã hoạt động trở lại khi dịch Covid-19 được kiểm soát tốt và nhu cầu dịch vụ lưu trú, ăn uống của người dân tăng cao. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 4 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương như sau: Cần Thơ tăng 45,4%; Thanh Hóa tăng 44,4%; Hải Phòng tăng 26,8%; Đà Nẵng tăng 26,7%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 26,3%; Khánh Hòa tăng 13,5%; Quảng Ninh tăng 6,7%.
 
Doanh thu du lịch lữ hành 4 tháng đầu năm ước tính đạt 4 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,2% tổng mức và giảm 49,2% so với cùng kỳ năm trước do Việt Nam tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, chưa mở cửa du lịch quốc tế đồng thời người dân vẫn lo lắng về dịch bệnh nên hạn chế đi du lịch. Một số địa phương có doanh thu du lịch lữ hành 4 tháng tăng so với cùng kỳ năm trước: Thanh Hóa tăng 34,1%; Kiên Giang tăng 33%; Hải Phòng tăng 15%; Cần Thơ tăng 14,8%. Trong đó, một số thành phố lớn giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước: Hà Nội giảm 8,7%; Đà Nẵng giảm 45%; Hồ Chí Minh giảm 46%.
 
Doanh thu dịch vụ khác 4 tháng đầu năm ước tính đạt 174,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,3% tổng mức và tăng 15% so với cùng kỳ năm trước do tháng 4/2020 một số lĩnh vực như giáo dục, vui chơi giải trí tạm ngừng hoạt động, trong đó doanh thu của Hải Phòng tăng 29,7%; Quảng Ninh tăng 27,1%; Cần Thơ tăng 21,9%; Hà Nội tăng 18,7%; Bình Định tăng 14,5%; Đà Nẵng tăng 14,2%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 5%; Khánh Hòa giảm 11,1%.
 
b) Xuất, nhập khẩu hàng hóa[14]
 
Hoạt động xuất, nhập khẩu 4 tháng đầu năm 2021 so với cùng kỳ năm trước đạt tốc độ tăng cao nhất trong vòng 10 năm qua. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa 4 tháng ước tính đạt 206,51 tỷ USD, tăng 29,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 103,9 tỷ USD, tăng 28,3%; nhập khẩu hàng hóa đạt 102,61 tỷ USD, tăng 30,8%[15]. Cán cân thương mại hàng hóa 4 tháng đầu năm 2021 ước tính xuất siêu 1,29 tỷ USD.
 
Xuất khẩu hàng hóa
 
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa thực hiện tháng 3/2021 đạt 29.654 triệu USD, cao hơn 1.054 triệu USD so với số ước tính.
 
Ước tính tháng 4/2021, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 25,5 tỷ USD, giảm 14% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 6,7 tỷ USD, giảm 11,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 18,8 tỷ USD, giảm 14,9%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng Tư tăng 44,9%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 23,8%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 54,2%.
 
Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước tính đạt 103,9 tỷ USD, tăng 28,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 25,76 tỷ USD, tăng 12,8%, chiếm 24,8% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 78,14 tỷ USD, tăng 34,4%, chiếm 75,2%.
 
Trong 4 tháng có 19 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 84,5% tổng kim ngạch xuất khẩu (5 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 59,8%), trong đó điện thoại và linh kiện có giá trị xuất khẩu lớn nhất đạt 18,4 tỷ USD, chiếm 17,7% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 19,4% so với cùng kỳ năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 15,9 tỷ USD, tăng 30,8%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 12 tỷ USD, tăng 76,9%; hàng dệt may đạt 9,5 tỷ USD, tăng 9%; giày dép đạt 6,4 tỷ USD, tăng 18,7%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 5 tỷ USD, tăng 50,5%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 3,5 tỷ USD, tăng 28%; sắt thép đạt 2,7 tỷ USD, tăng 87,9%; thủy sản đạt 2,4 tỷ USD, tăng 6,1%. Kim ngạch xuất khẩu của một số mặt hàng nông sản 4 tháng đầu năm nay tăng so với cùng kỳ năm trước: Rau quả đạt 1,3 tỷ USD, tăng 9,5%; gạo đạt 1 tỷ USD, tăng 1,2% (lượng giảm 10,8%); cao su đạt 817 triệu USD, tăng 111,6% (lượng tăng 79,6%); sắn và các sản phẩm từ sắn đạt 443 triệu USD, tăng 23,9% (lượng tăng 13,9%); hạt tiêu đạt 274 triệu USD, tăng 10,3% (lượng giảm 21,3%); chè đạt 60 triệu USD, tăng 7,9% (lượng tăng 1,6%). Bên cạnh đó, có một số mặt hàng giảm: Cà phê đạt 1 tỷ USD, giảm 11,6% (lượng giảm 17,6%); hạt điều đạt 894 triệu USD, giảm 7,4% (lượng tăng 8,6%).
 
Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu 4 tháng đầu năm 2021, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản ước tính đạt 57,58 tỷ USD, tăng 33% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 55,4% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa (tăng 2 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước). Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp ước tính đạt 36,6 tỷ USD, tăng 27,5% và chiếm 35,2% (giảm 0,2 điểm phần trăm). Nhóm hàng nông, lâm sản đạt 7,33 tỷ USD, tăng 8,8% và chiếm 7,1% (giảm 1,3 điểm phần trăm). Nhóm hàng thủy sản đạt 2,39 tỷ USD, tăng 6,1% và chiếm 2,3% (giảm 0,5 điểm phần trăm).
 
Về thị trường xuất khẩu hàng hóa 4 tháng đầu năm 2021, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 30,3 tỷ USD, tăng 50,1% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là Trung Quốc đạt 16,8 tỷ USD, tăng 32,4%; thị trường EU đạt 12,6 tỷ USD, tăng 18,1%; thị trường ASEAN đạt 8,8 tỷ USD, tăng 13,3%; Hàn Quốc đạt 6,9 tỷ USD, tăng 12,1%; Nhật Bản đạt 6,5 tỷ USD, tăng 1,5%.
 
Nhập khẩu hàng hóa
 
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa thực hiện tháng 3/2021 đạt 28.457 triệu USD, cao hơn 257 triệu USD so với số ước tính.
 
Ước tính tháng 4/2021, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 27 tỷ USD, giảm 5,1% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 9,8 tỷ USD, giảm 4,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 17,2 tỷ USD, giảm 5,4%.
 
So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Tư tăng 43,5%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 36,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 47,9%.
 
Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước tính đạt 102,61 tỷ USD, tăng 30,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 35,69 tỷ USD, tăng 24,8% khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 66,92 tỷ USD, tăng 34,2%.
 
Trong 4 tháng đầu năm 2021 có 19 mặt hàng nhập khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD, chiếm 77,4% tổng kim ngạch nhập khẩu (3 mặt hàng đạt trên 5 tỷ USD, chiếm 41,8%), trong đó: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 22 tỷ USD (chiếm 21,5% tổng kim ngạch nhập khẩu), tăng 24,8% so với cùng kỳ năm trước; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 14,8 tỷ USD, tăng 31,7%; điện thoại và linh kiện đạt 6 tỷ USD, tăng 44%; vải đạt 4,2 tỷ USD, tăng 18,2%; chất dẻo đạt 3,8 tỷ USD, tăng 39,4%; sắt thép đạt 3,7 tỷ USD, tăng 36,5%; kim loại thường đạt 2,8 tỷ USD, tăng 41,9%; ô tô đạt 2,7 tỷ USD, tăng 46,7%; sản phẩm chất dẻo đạt 2,6 tỷ USD, tăng 15,4%; hóa chất đạt 2,4 tỷ USD, tăng 40,5%; sản phẩm hóa chất đạt 2,3 tỷ USD, tăng 24,6%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày, dép đạt 2,1 tỷ USD, tăng 21,5%.
 
Về cơ cấu nhập khẩu hàng hóa 4 tháng đầu năm 2021, nhóm hàng tư liệu sản xuất ước tính đạt 96,31 tỷ USD, tăng 31,4% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 93,9% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa (tăng 0,4 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước), trong đó nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ, phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 46,77 tỷ USD, tăng 29,7% và chiếm 45,6% (giảm 0,4 điểm phần trăm); nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu đạt 49,54 tỷ USD, tăng 33% và chiếm 48,3% (tăng 0,8 điểm phần trăm). Nhóm hàng tiêu dùng ước tính đạt 6,3 tỷ USD, tăng 22,5% và chiếm 6,1% (giảm 0,4 điểm phần trăm).
 
Về thị trường nhập khẩu hàng hóa 4 tháng đầu năm nay, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 33,1 tỷ USD, tăng 47,8% so với cùng kỳ năm trước; tiếp theo là Hàn Quốc đạt 16,9 tỷ USD, tăng 16,9%; thị trường ASEAN đạt 14,1 tỷ USD, tăng 48,2%; Nhật Bản đạt 7,2 tỷ USD, tăng 10,5%; thị trường EU đạt 5,3 tỷ USD, tăng 16,6%; Hoa Kỳ đạt 5,1 tỷ USD, tăng 7,9%.
 
Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng 3/2021 xuất siêu 1,2 tỷ USD[16]; quý I xuất siêu 2,79 tỷ USD; tháng Tư ước tính nhập siêu 1,5 tỷ USD. Ước tính 4 tháng đầu năm 2021 xuất siêu 1,29 tỷ USD[17], trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 9,92 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 11,21 tỷ USD.
 
c) Chỉ số giá
 
Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
 
Giá lương thực, thực phẩm giảm do nguồn cung dồi dào; giá điện, nước sinh hoạt giảm theo nhu cầu tiêu dùng là những nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4/2021 giảm 0,04% so với tháng trước, tăng 1,27% so với tháng 12/2020 tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 4 tháng đầu năm 2021, CPI tăng 0,89% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng thấp nhất kể từ năm 2016[18]; lạm phát cơ bản 4 tháng tăng 0,74%.
 
Trong mức giảm 0,04% của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4/2021 so với tháng trước có 4 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm, 6 nhóm hàng có chỉ số giá tăng và 1 nhóm hàng giữ ổn định giá. Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng có mức giảm nhiều nhất với 0,43% (làm CPI chung giảm 0,08 điểm phần trăm), trong đó: Giá điện, nước sinh hoạt tháng Tư lần lượt giảm 0,73% và 1,57%; giá gas giảm 4,86% giá dầu hỏa tăng 0,06%. Nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,2% chủ yếu do các doanh nghiệp đẩy mạnh chương trình khuyến mại giảm giá đối với các sản phẩm điện thoại mẫu mã cũ. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,13% (làm CPI chung giảm 0,04 điểm phần trăm) do nguồn cung dồi dào, trong đó: Lương thực giảm 0,01%[19]; thực phẩm giảm 0,25%[20]; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,14%. Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,11% chủ yếu do thời tiết thuận lợi, đang rộ mùa khiến giá hoa, cây cảnh giảm 7,32%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm: Nhóm giao thông tăng 0,87% (làm CPI chung tăng 0,08 điểm phần trăm) do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh tăng, giảm giá xăng, dầu vào thời điểm 27/3/2021, 12/4/2021 và 27/4/2021 làm chỉ số giá xăng tăng 2,19%, dầu diezel tăng 0,25%; bên cạnh đó, giá dịch vụ giao thông công cộng tăng 0,84%. Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,14% chủ yếu do nhu cầu tiêu dùng các mặt hàng nước khoáng và nước có gas tăng khi thời tiết chuyển nắng nóng[21]. Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,11% do giá các sản phẩm sử dụng nhiều vào dịp hè như tủ lạnh, máy điều hòa nhiệt độ, quạt điện tăng. Nhóm giáo dục tăng 0,03%. Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,01% chủ yếu do thời tiết giao mùa, các loại vi rút gây bệnh sinh sôi mạnh, người dân dễ mắc bệnh hô hấp nên nhu cầu mua các loại thuốc tăng cường hệ miễn dịch tăng. Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,07%. Riêng nhóm may mặc, mũ nón, giày dép không thay đổi.
 
CPI tháng 4/2021 tăng 1,27% so với tháng 12/2020 và tăng 2,70% so với cùng kỳ năm trước; CPI bình quân 4 tháng đầu năm 2021 tăng 0,89% so với bình quân cùng kỳ năm 2020.
 
Lạm phát cơ bản tháng 4/2021 tăng 0,07% so với tháng trước và tăng 0,95% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 4 tháng đầu năm nay tăng 0,74% so với bình quân cùng kỳ năm 2020.
 
Giá vàng trong nước biến động ngược chiều với giá vàng thế giới. Bình quân giá vàng thế giới đến ngày 24/4/2021 tăng 2,08% so với tháng 3/2021 do lợi suất trái phiếu Mỹ giảm khiến vàng trở nên hấp dẫn. Bên cạnh đó, lực mua lớn từ Trung Quốc và Ấn Độ, hai nước tiêu thụ vàng lớn nhất thế giới, đã đóng góp không nhỏ vào sự phục hồi giá vàng. Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 4/2021 giảm 1,9% so với tháng trước; giảm 2,51% so với tháng 12/2020 và tăng 13,84% so với cùng kỳ năm trước.
 
Đồng đô la Mỹ trên thị trường thế giới tăng trong bối cảnh lãi suất tại Mỹ được kiểm soát chặt chẽ và triển vọng tiêm chủng vắc-xin phòng chống dịch Covid-19 ở châu Âu được cải thiện. Trong nước, lượng dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam dồi dào đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ của các doanh nghiệp nhập khẩu. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 4/2021 tăng 0,29% so với tháng trước; tăng 0,18% so với tháng 12/2020 và giảm 1,35% so với cùng kỳ năm trước.
 
Chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất
 
Chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất tháng 4/2021 tăng 0,37% so với tháng trước và tăng 4,47% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,89% và tăng 7,82%; dùng cho sản xuất công nghiệp tăng 0,32% và tăng 4,49%; dùng cho xây dựng tăng 0,18% và tăng 2,06%. Tính chung 4 tháng đầu năm nay, chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất tăng 4,64% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 6,77%; dùng cho sản xuất công nghiệp tăng 4,95%; dùng cho xây dựng tăng 1,95%.
 
Trong đó đáng lưu ý giá nhóm sản phẩm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi tăng do nguồn cung nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trên thế giới giảm; chi phí vận chuyển nguyên liệu nhập khẩu tăng cao từ việc thiếu tàu biển và container ảnh hưởng bởi dịch Covid-19; biến đổi khí hậu làm mất mùa. Trong khi đó, ở Việt Nam, nguồn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi chủ yếu từ nhập khẩu (chiếm khoảng 80%-85%), giá nhập khẩu thức ăn chăn nuôi 4 tháng đầu năm 2021 tăng 6,66% so với cùng kỳ năm 2020 nên ảnh hưởng đến giá thức ăn chăn nuôi trong nước. Cụ thể, giá nhóm sản phẩm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi cho ngành công nghiệp chế biến tháng 4/2021 tăng 2,48% so với tháng trước và tăng 13,49% so với cùng kỳ năm 2020, tính chung 4 tháng đầu năm nay tăng 8,79%; giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi cho các hộ gia đình sản xuất nông nghiệp tăng 1,26% và tăng 5,09%, tính chung 4 tháng tăng 3,6%.
 
d) Vận tải hành khách và hàng hóa
 
Trong tháng 4/2021, hoạt động vận tải ghi nhận sự phục hồi khá tích cực, thêm vào đó, vận tải tháng 4/2020 giảm mạnh do thực hiện giãn cách toàn xã hội nên vận tải hành khách tháng 4/2021 tăng cao 142,6% về lượng hành khách vận chuyển và tăng 177% về lượng hành khách luân chuyển so với cùng kỳ năm trước. Vận tải hàng hóa duy trì đà phục hồi từ những tháng trước với sản lượng vận chuyển tăng 39,6% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển tăng 38,8%. Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, vận chuyển hành khách giảm nhẹ 0,4% so với cùng kỳ năm trước, luân chuyển hành khách giảm 5,8% và vận chuyển hàng hóa tăng 14,6%, luân chuyển hàng hóa tăng 12,1%.
 
Vận tải hành khách tháng 4/2021 ước tính đạt 294,5 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 4,9% so với tháng trước và luân chuyển 13,5 tỷ lượt khách.km, tăng 11,9%. Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, vận tải hành khách đạt 1.263,6 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 0,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 giảm 27,5%) và luân chuyển 54,8 tỷ lượt khách.km, giảm 5,8% (cùng kỳ năm trước giảm 30,6%), trong đó vận tải trong nước đạt gần 1.263,6 triệu lượt khách, giảm 0,2% và 54,3 tỷ lượt khách.km, tăng 11,1%; vận tải ngoài nước đạt 82,6 nghìn lượt khách, giảm 96,9% và 432,1 triệu lượt khách.km, giảm 95,3%. Xét theo ngành vận tải, vận tải hành khách đường bộ 4 tháng đạt 1.168,2 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 1,3% so với cùng kỳ năm trước và 42,5 tỷ lượt khách.km luân chuyển, tăng 3,1%; đường thủy nội địa đạt 80,8 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 13,5% và luân chuyển đạt 1,4 tỷ lượt khách.km, tăng 10,9%; hàng không đạt 11,7 triệu lượt khách, tăng 9,5% và luân chuyển 10,3 tỷ lượt khách.km, giảm 30,4%; đường biển đạt 1,9 triệu lượt khách, giảm 1,5% và 131,3 triệu lượt khách.km, tăng 12,4%; đường sắt đạt 922,3 nghìn lượt khách, giảm 37,3% và 399,7 triệu lượt khách.km, giảm 44,5%.
 
Vận tải hàng hóa tháng 4/2021 ước tính đạt 153,7 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 6,1% so với tháng trước và luân chuyển 30,3 tỷ tấn.km, tăng 5,2%. Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, vận tải hàng hóa đạt 617,6 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 14,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 giảm 7,2%) và luân chuyển 116,9 tỷ tấn.km, tăng 12,1% (cùng kỳ năm trước giảm 7,8%), trong đó vận tải trong nước đạt 606,7 triệu tấn, tăng 15% và 67,6 tỷ tấn.km, tăng 24%; vận tải ngoài nước đạt 10,9 triệu tấn, giảm 3,2% và 49,3 tỷ tấn.km, giảm 0,9%. Xét theo ngành vận tải, hầu hết các ngành đường trong 4 tháng đầu năm nay đều tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó vận tải hàng hóa đường bộ đạt 479,2 triệu tấn vận chuyển, tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước và 35 tỷ tấn.km luân chuyển, tăng 19,5%; đường thủy nội địa đạt 109,4 triệu tấn, tăng 17,6% và 24,7 tỷ tấn.km, tăng 22%; đường biển đạt 27,2 triệu tấn, tăng 9,7% và 54,9 tỷ tấn.km, tăng 5,4%; đường sắt đạt 1,8 triệu tấn, tăng 11,3% và 1,2 tỷ tấn.km, tăng 7,7%; riêng đường hàng không mặc dù tăng 20,7% về sản lượng vận chuyển so với cùng kỳ năm trước, đạt 119,4 nghìn tấn nhưng vẫn giảm 27,7% về sản lượng luân chuyển, đạt 1,1 tỷ tấn.km.
 
đ) Khách quốc tế đến Việt Nam
 
Khách quốc tế đến nước ta tháng 4/2021 đạt 19,5 nghìn lượt người, tăng nhẹ 0,3% so với tháng trước và giảm 25,8% so với cùng kỳ năm trước do Việt Nam tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, chưa mở cửa du lịch quốc tế nên lượng khách đến chủ yếu là chuyên gia, lao động kỹ thuật nước ngoài làm việc tại các dự án ở Việt Nam và lái xe vận chuyển hàng hóa tại các cửa khẩu đường bộ. Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, khách quốc tế đến nước ta đạt 67,6 nghìn lượt người, giảm 98,2% so với cùng kỳ năm trước.
 
Khách quốc tế đến nước ta trong tháng 4/2021 ước tính đạt 19,5 nghìn lượt người, tăng 0,3% so với tháng trước và giảm 25,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó riêng khách đến từ Trung Quốc và Hàn Quốc chiếm 66,1% lượng khách đến trong tháng. Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 67,6 nghìn lượt người, giảm 98,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng đường hàng không đạt 42,9 nghìn lượt người, chiếm 63,5% lượng khách quốc tế đến Việt Nam, giảm 98,6%; bằng đường bộ đạt 24,5 nghìn lượt người, chiếm 36,3% và giảm 95,6%; bằng đường biển đạt 155 lượt người, chiếm 0,2% và giảm 99,9%.
 
Trong 4 tháng đầu năm nay, khách đến từ châu Á đạt 60,2 nghìn lượt người, chiếm 89% tổng số khách quốc tế đến nước ta, giảm 97,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khách đến từ các thị trường chính đều giảm mạnh: Trung Quốc đạt gần 28,1 nghìn lượt người, giảm 96,9% so với cùng kỳ năm trước; Hàn Quốc 14,7 nghìn lượt người, giảm 98,2%; Đài Loan 5,2 nghìn lượt người, giảm 97,3%; Lào 3,8 nghìn lượt người, giảm 89,7%; Nhật Bản đạt gần 3,4 nghìn lượt người, giảm 98,3%. Khách đến từ châu Âu trong 4 tháng ước tính đạt 4,8 nghìn lượt người, giảm 99,3% so với cùng kỳ năm trước; khách đến từ châu Mỹ đạt 1,7 nghìn lượt người, giảm 99,3%; khách đến từ châu Úc đạt 450 lượt người, giảm 99,6%; khách đến từ châu Phi đạt 448 lượt người, giảm 96,3%.
 
7. Một số tình hình xã hội
 
a) Đời sống dân cư
 
Đời sống dân cư trong tháng Tư và 4 tháng đầu năm nay nhìn chung ổn định, là kết quả của các chính sách an sinh xã hội và giải pháp hỗ trợ các hộ cận nghèo của Chính phủ. Tháng 4/2021 là tháng thứ 10 liên tiếp không phát sinh thiếu đói trên phạm vi cả nước. 
 
b) Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
 
Theo báo cáo của Bộ Y tế, trong tháng (19/3-18/4/2021), cả nước có 3.728 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (2 trường hợp tử vong); 8.705 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (3 trường hợp tử vong); 64 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do vi rút (1 trường hợp tử vong); 2 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu; 69 trường hợp sốt phát ban nghi sởi, trong đó có 17 trường hợp dương tính. Tính chung 4 tháng đầu năm, cả nước có 19.710 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (5 trường hợp tử vong); 20.576 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (4 trường hợp tử vong); 145 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do vi rút (1 trường hợp tử vong); 8 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu (1 trường hợp tử vong); 173 trường hợp sốt phát ban nghi sởi, trong đó có 21 trường hợp dương tính.
 
Dịch Covid-19 trên thế giới vẫn diễn biến phức tạp[22]. 5 quốc gia có số ca mắc Covid-19 nhiều nhất thế giới là Mỹ, Ấn Độ, Bra-xin, Pháp và Nga. Tại Việt Nam, tính đến 6h00 ngày 28/4/2021, Việt Nam có 2.857 trường hợp mắc, 2.516 trường hợp đã được chữa khỏi (35 trường hợp tử vong).
 
Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 18/4/2021 là 211.534 người; số người đã chuyển sang giai đoạn AIDS là 97.167 người và số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 99.265 người.
 
Về ngộ độc thực phẩm, trong tháng Tư xảy ra 7 vụ với 73 người bị ngộ độc (1 người tử vong). Tính chung 4 tháng đầu năm, cả nước xảy ra 24 vụ với 473 người bị ngộ độc (3 người tử vong).
 
c) Tai nạn giao thông[23]
 
Trong tháng Tư (từ 15/3-14/4/2021), trên địa bàn cả nước xảy ra 1.014 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 648 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 366 vụ va chạm giao thông, làm 493 người chết, 339 người bị thương và 388 người bị thương nhẹ. So với tháng trước, số vụ tai nạn giao thông tăng 19,2% (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên tăng 13,5% và số vụ va chạm giao thông tăng 30,7%); số người chết tăng 11,5% và số người bị thương giảm 0,9% và số người bị thương nhẹ tăng 31,1%. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tháng Tư giảm 2,6% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên tăng 11,9% và số vụ va chạm giao thông giảm 20,8%); số người chết giảm 1,2%; số người bị thương tăng 30,4% và số người bị thương nhẹ giảm 18,5%.
 
Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, trên địa bàn cả nước xảy ra 4.220 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 2.722 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 1.498 vụ va chạm giao thông, làm 2.165 người chết, 1.461 người bị thương và 1.652 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông trong 4 tháng đầu năm nay giảm 6,4% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên tăng 8%; số vụ va chạm giao thông giảm 24,7%); số người chết tăng 1,3%; số người bị thương tăng 15,6% và số người bị thương nhẹ giảm 19,1%. Bình quân 1 ngày trong 4 tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 35 vụ tai nạn giao thông, gồm 23 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 12 vụ va chạm giao thông, làm 18 người chết, 12 người bị thương và 14 người bị thương nhẹ.
 
d) Thiệt hại do thiên tai
 
Thiên tai xảy ra trong tháng (từ ngày 19/3-18/4/2021) chủ yếu là mưa lớn gây ngập, giông lốc, sét đánh, hạn hán nắng nóng và sạt lở làm 4 người chết; 6 người bị thương; 382,6 ha lúa và 528,4 ha hoa màu bị hư hỏng; 541 ngôi nhà bị ngập hư hại, thiệt hại ước tính 44,3 tỷ đồng, giảm 97,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng đầu năm nay, thiên tai làm 7 người chết và mất tích, 7 người bị thương; 1.246 ngôi nhà bị sập đổ và hư hỏng; 4,1 nghìn con gia súc và gia cầm bị chết; 711,2 ha lúa và 659,3 ha hoa màu bị hư hỏng; tổng giá trị thiệt hại về tài sản ước tính 86,4 tỷ đồng, giảm 96,6%.
 
đ) Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ
 
Trong tháng 4/2021, cơ quan chức năng đã phát hiện 1.077 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 906 vụ với tổng số tiền phạt 17,5 tỷ đồng. Tính chung 4 tháng đầu năm nay đã phát hiện 6.452 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 5.670 vụ với tổng số tiền phạt gần 73 tỷ đồng.
 
Trong tháng[24], cả nước xảy ra 162 vụ cháy, nổ, làm 13 người chết và 9 người bị thương, thiệt hại ước tính 76,7 tỷ đồng. Tính chung 4 tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 788 vụ cháy, nổ, làm 34 người chết và 48 người bị thương, thiệt hại ước tính 237,9 tỷ đồng./.
Nguồn: Tổng cục Thống kê


 
[1] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã cho phép nhập khẩu hơn bốn triệu liều vắc-xin, trong đó 1 triệu liều đang trong quá trình đánh giá vô trùng và an toàn theo quy định của Luật Thú y trước khi đưa vào sử dụng.
[2] Hà Nội, Quảng Ninh, Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình, Cao Bằng, Bắc Kạn,Tuyên Quang, Lạng Sơn, Điện Biên, Hòa Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đắk Lắk, Kon Tum, Bình Phước, Tiền Giang, Bạc Liêu.
[3] Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Yên Bái, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi.
[4] Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
[5] Trong tháng Tư, giá cá tra nguyên liệu loại 800 - 900 gram/con ở vùng Đồng Bằng sông Cửu Long dao động từ 21.000 - 22.000 đồng/kg, tương đương so với tháng trước, so với cùng kỳ năm trước tăng hơn 3.000 đồng/kg.
[6] Tháng 4/2020 giảm 7,6% so với cùng kỳ năm trước do thực hiện giãn cách xã hội để hạn chế ảnh hưởng của dịch Covid-19.
[7] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Báo cáo nhận ngày 27/4/2021).
[8] Tốc độ tăng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới 4 tháng đầu năm các năm 2017-2021 lần lượt là: tăng 14%; tăng 4,3%; tăng 4,9%; giảm 13,2%; tăng 17,5%.
[9] So với cùng kỳ năm trước, số doanh nghiệp tăng 88,5%; số vốn đăng ký tăng 91,7%; số lao động đăng ký tăng 31,4%.
[10] Tốc độ tăng vốn thực hiện từ nguồn NSNN tháng so với cùng kỳ năm trước các năm 2017-2021: năm 2017 tăng 6,1%; năm 2018 tăng 8,6%; năm 2019 tăng 4,4%; năm 2020 tăng 6,7%; năm 2021 tăng 23,9%.
 
Tốc độ tăng vốn thực hiện từ nguồn NSNN 4 tháng so với cùng kỳ năm trước các năm 2017-2021: năm 2017 tăng 4,4%; năm 2018 tăng 9,8%; năm 2019 tăng 4%; năm 2020 tăng 14,5%; năm 2021 tăng 16,3%.
[11] Vốn đầu tư mới tăng mạnh do trong 4 tháng có 3 dự án của Tập đoàn Vingroup đầu tư sang Pháp, Hà Lan, Ca-na-da với vốn đầu tư mỗi dự án là 32 triệu USD và 01 dự án 20,5 triệu USD tại Xin-ga-po với mục tiêu kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị viễn thông, điện tử, đồ gia dụng, ô tô.
[12] Vốn đầu tư điều chỉnh tăng mạnh do có dự án của Vingroup tại Hoa Kỳ điều chỉnh tăng 300 triệu USD; dự án Công ty TNHH Đầu tư và phát triển cao su Đông Dương tại Cam-pu-chia tăng 76 triệu USD và 01 dự án của Vinfast tại Đức tăng 32 triệu USD.
[13] Vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài 4 tháng năm 2021 giảm so với 3 tháng đầu năm do trong tháng 4/2021 có dự án Tổng công ty CP dịch vụ dầu khí Việt Nam điều chỉnh giảm vốn 30,6 triệu USD. Lượng vốn đầu tư giảm trong tháng 4 lớn hơn tổng vốn đầu tư đăng ký mới và tăng thêm trong tháng 4.
[14] Số liệu tháng 4/2021 do Tổ liên ngành gồm Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Tổng cục Hải quan và Tổng cục Thống kê họp ước tính căn cứ trên số liệu kim ngạch xuất, nhập khẩu tính đến ngày 26/4/2021 của Tổng cục Hải quan kết hợp với thông tin thị trường, tỷ trọng và xu hướng xuất, nhập khẩu các mặt hàng. Tổng cục Thống kê nhận được và cập nhật báo cáo vào ngày 28/4/2021.
[15] Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa 4 tháng đầu năm 2020 đạt 159,44 tỷ USD, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 80,99 tỷ USD, tăng 2,2%; nhập khẩu đạt 78,45 tỷ USD, tăng 0,2%.
[16] Tháng Ba ước tính xuất siêu 400 triệu USD.
[17] Trong đó, 4 tháng đầu năm 2021 xuất siêu sang EU đạt 7,3 tỷ USD, tăng 19,3% so với cùng kỳ năm trước; nhập siêu từ Trung Quốc 16,3 tỷ USD, tăng 68,2%; nhập siêu từ Hàn Quốc 10 tỷ USD, tăng 20,5%; nhập siêu từ ASEAN 5,4 tỷ USD, tăng 194,1%.
[18] Tốc độ tăng CPI bình quân 4 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước giai đoạn 2016-2021 lần lượt là: tăng 1,41%; tăng 4,8%; tăng 2,8%; tăng 2,71%; tăng 4,9%; tăng 0,89%.
[19] Giá gạo giảm 0,1% do nguồn cung dồi dào, nhiều cửa hàng giảm giá gạo cũ để chuẩn bị kho cho thu mua gạo mới. Bên cạnh đó, giá gạo trong nước giảm theo giá gạo xuất khẩu do cạnh tranh giá.
[20] Giá thịt lợn giảm 1,75% (làm CPI chung giảm 0,06 điểm phần trăm) do dịch tả lợn châu Phi được kiểm soát, nguồn cung thịt lợn đảm bảo; giá các sản phẩm chế biến từ thịt lợn giảm (giá thịt quay, giò, chả giảm 0,46%; thịt chế biến khác giảm 0,02%; mỡ động vật giảm 3,43%); giá thịt gà và trứng gia cầm giảm lần lượt 0,22% và 1,2%; giá thủy sản tươi sống giảm 0,57%. Riêng giá rau tươi, khô và chế biến tăng 1,48%; giá quả tươi và chế biến tăng 0,13%.
[21] Giá nước khoáng tăng 0,34%; nước giải khát có ga tăng 0,36%; nước quả ép tăng 0,1%; nước uống tăng lực đóng chai tăng 0,38%.
[22] Tính đến 6h00 ngày 28/4/2021 trên thế giới có 149.289,9 nghìn trường hợp mắc Covid-19 (3.147,2 nghìn trường hợp tử vong).
[23] Theo báo cáo nhanh từ Văn phòng Bộ Công an và Cục Hàng hải (Bộ Giao thông vận tải).
[24]Theo báo cáo nhanh từ Bộ Công an ngày 23/4/2021.

Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top