Tình hình kinh tế - xã hội tháng 11 và 11 tháng năm 2020

30/11/2020 - 05:32 AM
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
 
 Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào hoàn tất thu hoạch lúa mùa trên cả nước và gieo trồng các loại cây màu vụ đông tại các địa phương phía Bắc. Tình hình chăn nuôi tiếp tục phát triển khá nhưng dịch tả lợn châu Phi đang diễn biến phức tạp tại nhiều địa phương. Ngành thủy sản gặp thuận lợi khi cá tra nguyên liệu duy trì được mức giá tốt, sản lượng nuôi trồng tôm nước lợ tăng khá do giá tôm thẻ chân trắng tăng mạnh phục vụ nhu cầu chế biến xuất khẩu.
 
a) Nông nghiệp
 
Tính đến trung tuần tháng Mười Một, cả nước thu hoạch được 1.424,7 nghìn ha lúa mùa, chiếm 89,9% diện tích gieo cấy[1] và bằng 98,1% cùng kỳ năm trước do ảnh hưởng của thời tiết nắng nóng, hạn hán nên thời gian xuống giống bị chậm từ 10-20 ngày so với thời vụ thông thường, trong đó các địa phương phía Bắc thu hoạch 1.032,7 nghìn ha, chiếm 98,3% và bằng 97,7%; các địa phương phía Nam thu hoạch 392 nghìn ha, chiếm 73,4% và bằng 99,1%. Mặc dù đầu vụ chịu ảnh hưởng của hạn hán trên diện rộng gây khó khăn cho việc gieo cấy, nhưng trong quá trình cây lúa sinh trưởng và phát triển, điều kiện thời tiết thuận lợi hơn nên cây lúa đẻ nhánh nhanh và đồng đều, các loại sâu bệnh xuất hiện được phòng trừ kịp thời làm năng suất vụ mùa năm nay tăng so với năm trước. Theo báo cáo sơ bộ, năng suất lúa mùa năm nay của cả nước ước tính đạt 51 tạ/ha, tăng 0,5 tạ/ha so với vụ mùa năm trước. Tuy nhiên, do diện tích gieo cấy giảm nên sản lượng chung toàn vụ ước tính đạt 8,08 triệu tấn, giảm 20,7 nghìn tấn so với năm trước. Trong đó, năng suất tại các địa phương phía Bắc đạt 51,7 tạ/ha, tăng 0,7 tạ/ha; sản lượng đạt 5,43 triệu tấn, tương đương vụ mùa năm trước, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng đạt 56,6 tạ/ha, tăng 1 tạ/ha; sản lượng đạt 2,74 triệu tấn, giảm 25,2 nghìn tấn. Tại các địa phương phía Nam, năng suất lúa mùa ước tính đạt 49,6 tạ/ha, tăng 0,2 tạ/ha; sản lượng đạt 2,65 triệu tấn, giảm 12,8 nghìn tấn.
 
Diện tích gieo trồng lúa thu đông năm 2020 tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long ước tính đạt 724 nghìn ha, giảm 0,2 nghìn ha so với vụ thu đông năm trước. Đến nay, toàn vùng đã thu hoạch được 382,9 nghìn ha lúa, chiếm 52,9% diện tích gieo cấy và bằng 103,9% cùng kỳ năm trước. Theo báo cáo sơ bộ, năng suất toàn vụ ước tính đạt 55,1 tạ/ha, tăng 0,2 tạ/ha so với vụ thu đông năm trước; sản lượng đạt 3,99 triệu tấn, tương đương năm trước. Hiện nay còn gần một nửa diện tích lúa thu đông chưa đến kỳ thu hoạch, ngành Nông nghiệp cần tăng cường hướng dẫn người dân theo dõi sát tình hình sinh trưởng của cây lúa, đặc biệt trên trà lúa đã trổ đòng để tránh sâu bệnh gây hại.
 
Tính đến ngày 15/11/2020, các địa phương phía Nam đã gieo cấy được 237,9 nghìn ha lúa đông xuân sớm, bằng 68,1% cùng kỳ năm trước, tập trung chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tiến độ gieo trồng lúa đông xuân chậm hơn cùng kỳ năm trước do các địa phương chủ động điều chỉnh thời điểm xuống giống phù hợp với diễn biến thời tiết và dự báo của các ngành chức năng.
 
Tính đến trung tuần tháng Mười Một, cả nước gieo trồng được 78,9 nghìn ha ngô, bằng 91,2% cùng kỳ năm trước; 16,9 nghìn ha khoai lang, bằng 91,4%; 3,3 nghìn ha đậu tương, bằng 66%; 4,6 nghìn ha lạc, bằng 85,2%; 137,3 nghìn ha rau các loại, bằng 100,1%.
 
Tình hình chăn nuôi trâu, bò trên cả nước trong tháng Mười Một nhìn chung ổn định. Tổng số trâu của cả nước trong tháng ước tính giảm 2% so với cùng thời điểm năm trước, tổng số bò tăng 2,5%. Lũ lụt khiến số lượng gia cầm tại các tỉnh miền Trung giảm mạnh dẫn đến làm chậm tốc độ tăng tổng đàn của cả nước. Ước tính tổng số gia cầm cả nước tháng 11/2020 tăng 4,1% so với cùng thời điểm năm 2019. Đàn lợn tiếp tục đà hồi phục, giá lợn giống có xu hướng giảm nhẹ thuận lợi cho việc tái đàn. Ước tính tổng số lợn trong tháng tăng 12% so với cùng thời điểm năm trước. Tuy nhiên, dịch tả lợn châu Phi hiện nay đang diễn biến phức tạp, các cơ quan chuyên ngành cần phối hợp với chính quyền cơ sở xử lý triệt để ổ dịch, kiểm soát, ngăn chặn dịch bệnh lây lan diện rộng. Tính đến ngày 25/11/2020, một số loại dịch bệnh chưa qua 21 ngày còn ở các địa phương: dịch tai xanh còn ở Hà Nam; dịch cúm gia cầm còn ở Khánh Hòa; dịch lở mồm long móng ở Quảng Nam, Kon Tum, Đắk Lắk, Đồng Nai, Long An, Trà Vinh; dịch tả lợn châu Phi còn ở 318 xã của 29 địa phương[2].
 
b) Lâm nghiệp
 
Trong tháng Mười Một, các địa phương tập trung cho công tác trồng rừng cuối năm. Diện tích rừng trồng mới tập trung tháng 11/2020 ước tính đạt 25,7 nghìn ha, giảm 8,2% so với cùng kỳ năm trước do ảnh hưởng của mưa bão, lũ lụt; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 4,5 triệu cây, giảm 4,3%; sản lượng gỗ khai thác đạt 1.717 nghìn m3, tăng 9,9% do diện tích rừng trồng đến kỳ thu hoạch, bênh cạnh đó sản lượng gỗ được tận thu từ nhiều diện tích rừng trồng keo bị thiệt hại gãy, đổ do mưa bão; sản lượng củi khai thác đạt 1,5 triệu ste, giảm 1,3%. Một số địa phương có sản lượng gỗ khai thác tăng cao: Quảng Ngãi đạt 371,2 nghìn m3, gấp 2,2 lần cùng kỳ năm trước; Bình Định đạt 192,2 nghìn m3, tăng 10,6%; Quảng Nam đạt 110 nghìn m3, tăng 22,2%.
 
Tính chung 11 tháng, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 223,8 nghìn ha, giảm 3,3% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 83,7 triệu cây, giảm 1,4%; sản lượng gỗ khai thác đạt 15,3 triệu m3, tăng 3%; sản lượng củi khai thác đạt 17,3 triệu ste, giảm 0,6%.
 
Diện tích rừng bị thiệt hại trong tháng Mười Một là 61,4 ha, giảm 4,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 18 ha, gấp 3 lần; diện tích rừng bị chặt, phá là 43,4 ha, giảm 25,4%. Tính chung 11 tháng năm nay, diện tích rừng bị thiệt hại là 1.418,5 ha, giảm 45,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 629 ha, giảm 67,9%; diện tích rừng bị chặt, phá là 789,5 ha, tăng 22,3%.
 
c) Thủy sản
 
Trong tháng 11/2020, sản lượng thủy sản cả nước ước tính đạt 733,8 nghìn tấn, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt 533,6 nghìn tấn, tăng 0,8%; tôm đạt 92,8 nghìn tấn, tăng 3,3%; thủy sản khác đạt 107,4 nghìn tấn, tăng 0,8%.
 
Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng ước tính đạt 457 nghìn tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 327,1 nghìn tấn, tăng 1,6%; tôm đạt 80,6 nghìn tấn, tăng 4%. Giá cá tra nguyên liệu sau chuỗi 9 tháng đầu năm dao động ở mức dưới 20.000 đồng/kg đã tăng lên mức 22.000-23.000 đồng/kg trong tháng Mười và tiếp tục duy trì mức giá này trong tháng Mười Một. Tuy nhiên, nguồn cung cá tra đạt yêu cầu (từ 0,7-0,9 kg/con) không còn nhiều, sản lượng cá tra tháng 11/2020 ước tính đạt 136,6 nghìn tấn, giảm 4,4% so với cùng kỳ năm trước. Giá tôm nguyên liệu tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục ở mức cao so các tháng đầu năm và tăng nhẹ do nguồn cung giảm, các nhà máy điều chỉnh giá thu mua để phục vụ nhu cầu xuất khẩu cuối năm[3]. Sản lượng tôm thẻ chân trắng tháng Mười Một ước tính đạt 56,6 nghìn tấn, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng tôm sú đạt 20 nghìn tấn, tăng 0,5%.
 
Do ảnh hưởng của bão nên khai thác thủy sản ở vùng biển miền Trung không được hoạt động liên tục, làm giảm sản lượng khai thác của cả nước. Sản lượng thủy sản khai thác tháng Mười Một ước tính đạt 276,8 nghìn tấn, giảm 1,1% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm cá đạt 206,5 nghìn tấn, giảm 0,5%; tôm đạt 12,2 nghìn tấn, giảm 0,8%; thủy sản khác đạt 58,1 nghìn tấn, giảm 3,5%. Sản lượng thủy sản khai thác biển ước tính đạt 261,5 nghìn tấn, giảm 1,2% so với cùng kỳ năm trước.
 
Tính chung 11 tháng năm 2020, sản lượng thủy sản ước tính đạt 7.673,3 nghìn tấn, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 4.158,3 nghìn tấn, tăng 1,3%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 3.515 nghìn tấn, tăng 1,8% (sản lượng khai thác biển đạt 3.342,5 nghìn tấn, tăng 2%).
 
2. Sản xuất công nghiệp
 
Trước tình hình dịch Covid-19 được kiểm soát tốt ở trong nước, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam và EU (EVFTA) được thực thi đã tạo thêm động lực cho các lĩnh vực của nền kinh tế phục hồi và phát triển hoạt động trong trạng thái bình thường mới, sản xuất công nghiệp tháng 11/2020 tiếp tục khởi sắc, đặc biệt là ngành chế biến, chế tạo với mức tăng cao 11,9% so với cùng kỳ năm trước.
 
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 11/2020 ước tính tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 6,2%; ngành chế biến, chế tạo tăng 11,9%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 4%; ngành cung cấp nước và hoạt động quản lý, xử lý rác thải, nước thải tăng 5,3%. Công nghiệp chế biến, chế tạo đạt mức tăng cao trong tháng Mười Một chủ yếu do có sự khởi sắc của các ngành: Sản xuất than cốc và sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 125% (sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 131,1%); sản xuất kim loại tăng 39%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 19,1%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 18,9%; sản xuất giường tủ bàn ghế tăng 15,8%; sản xuất thiết bị điện tăng 10,1%; sản xuất máy móc thiết bị chưa phân vào đâu tăng 9,4%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 8,8%.
 
Tính chung 11 tháng năm 2020, IIP ước tính tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 9,3% của cùng kỳ năm 2019. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 4,7% (cùng kỳ năm 2019 tăng 10,6%), đóng góp 3,8 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,2%, đóng góp 0,3 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 7,1%, làm giảm 1,1 điểm phần trăm trong mức tăng chung.
 
Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành trọng điểm có chỉ số sản xuất 11 tháng giảm sâu hoặc tăng rất thấp so với cùng kỳ năm trước: Hoạt động dịch vụ hỗ trợ khai thác mỏ và quặng giảm 33,5%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 11,8%; sản xuất mô tô, xe máy giảm 10,3%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị giảm 9,1%; sản xuất xe có động cơ giảm 8,9%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa giảm 6,8%; sản xuất đồ uống giảm 5,5%; sản xuất trang phục giảm 4,5%; thoát nước và xử lý nước thải giảm 3,2%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 2,5%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 1,5%; sản xuất thiết bị điện tăng 2,3%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 3,2%. Bên cạnh đó, một số ngành công nghiệp có chỉ số sản xuất 11 tháng tăng khá so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 29,2%; sản xuất kim loại tăng 13,6%; khai thác quặng kim loại tăng 13,4%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 11,5%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 10,2%; khai thác than cứng và than non tăng 7,8%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 7,6%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất, sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy cùng tăng 7,5%.
 
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực trong 11 tháng giảm sâu hoặc tăng thấp so với cùng kỳ năm trước: Đường kính giảm 21,7%; khí hóa lỏng LPG giảm 13,9%; bia giảm 13,8%; dầu thô khai thác giảm 13,5%; khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 10,4%; vải dệt từ sợi nhân tạo giảm 9,4%; xe máy giảm 8,2%; ô tô giảm 7,5%; quần áo mặc thường giảm 5,3%; giày, dép da giảm 2,5%. Bên cạnh đó, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng khá so với cùng kỳ năm trước: Ti vi tăng 23,6%; linh kiện điện thoại tăng 15,7%; thép cán tăng 13,4%; thép thanh, thép góc tăng 11,6%; sữa bột tăng 9,4%; xăng dầu các loại tăng 8,9%; phân u rê tăng 8,5%; than sạch và bột ngọt cùng tăng 7,8%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 6,3%.
 
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/11/2020 tăng 1,1% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 2,4% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 1,8%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước giảm 3,9%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 1,8%. Tại thời điểm trên, số lao động làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng giảm 1,5% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo giảm 2,5%; sản xuất và phân phối điện giảm 0,3%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,6%.
 
3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp[4]
 
Thực hiện mục tiêu kép vừa kiểm soát được dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội nên số lượng doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động có nhiều chuyển biến tích cực. Số doanh nghiệp thành lập mới tháng 11/2020 tăng 7,3% so với tháng trước và tăng 6,7% so với cùng kỳ năm 2019; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng 5,4% và tăng 59,8%. Đặc biệt, số vốn đăng ký của doanh nghiệp thành lập mới trong tháng tăng 72% so với tháng trước và tăng 103,5% so với cùng kỳ năm 2019. Tính chung 11 tháng năm 2020, cả nước có gần 124,3 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, giảm 1,9% so với cùng kỳ năm trước, tuy nhiên quy mô vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới tăng 21,7%.
 
Trong tháng 11/2020, cả nước có gần 13,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 284,8 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký là 119,7 nghìn lao động, tăng 7,3% về số doanh nghiệp, tăng 72% về vốn đăng ký và tăng 65,3% về số lao động so với tháng trước[5]. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong tháng đạt 21,8 tỷ đồng, tăng 60,3% so với tháng trước và tăng 90,6% so với cùng kỳ năm 2019. Trong tháng, cả nước còn có 5.315 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 5,4% so với tháng trước và tăng 59,8% so với cùng kỳ năm 2019; có 2.771 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, giảm 15,9% và tăng 30,8%; có 4.471 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 24,9% và tăng 5,7%; có 1.941 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 37,4% và tăng 30,6%.
 
Tính chung 11 tháng, cả nước có gần 124,3 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 1.878,9 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 970 nghìn lao động, giảm 1,9% về số doanh nghiệp, tăng 19,3% về vốn đăng ký và giảm 14,7% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 11 tháng đạt 15,1 tỷ đồng, tăng 21,7% so với cùng kỳ năm trước. Nếu tính cả 3.086,9 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 36,2 nghìn doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 11 tháng năm nay là 4.965,8 nghìn tỷ đồng, tăng 35,1% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, còn có 40,8 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 10,7% so với 11 tháng năm 2019, nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 11 tháng lên gần 165,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm trước. Trung bình mỗi tháng có 15 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.
 
Theo khu vực kinh tế, 11 tháng năm nay có 2.441 doanh nghiệp thành lập mới thuộc khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng 31,2% so với cùng kỳ năm trước; gần 37,3 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực công nghiệp và xây dựng, tăng 9,9%; 84,6 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực dịch vụ, giảm 7%. Bên cạnh ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản có số doanh nghiệp thành lập mới tăng, còn có ngành sản xuất, phân phối điện, nước, gas với 5.477 doanh nghiệp, tăng 263,4% so với cùng kỳ năm trước; ngành khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn, thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác 10.661 doanh nghiệp, tăng 0,9% và ngành khai khoáng 619 doanh nghiệp, tăng 0,5%. Các ngành còn lại đều có số doanh nghiệp thành lập mới giảm: Bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy có gần 41 nghìn doanh nghiệp, giảm 1,5% so với cùng kỳ năm 2019; xây dựng 15,7 nghìn doanh nghiệp, giảm 0,5%; công nghiệp chế biến, chế tạo 15,4 nghìn doanh nghiệp, giảm 3,4%; dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác 6.159 doanh nghiệp, giảm 17,6%; kinh doanh bất động sản 6.087 doanh nghiệp, giảm 16,7%; vận tải, kho bãi 5.086 doanh nghiệp, giảm 4,6%; dịch vụ lưu trú và ăn uống 4.789 doanh nghiệp, giảm 22,2%; thông tin truyền thông 3.417 doanh nghiệp, giảm 5,3%; giáo dục và đào tạo 3.448 doanh nghiệp, giảm 9,8%; tài chính, ngân hàng và bảo hiểm 1.190 doanh nghiệp, giảm 11,9%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 826 doanh nghiệp, giảm 4,3%; nghệ thuật, vui chơi, giải trí 825 doanh nghiệp, giảm 34,4%.
 
Trong 11 tháng có gần 93,5 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: 44,4 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 59,7%; 33,6 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 11,7%; hơn 15,4 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 3,1%, trong đó có 13,7 nghìn doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, tăng 1,2%; 247 doanh nghiệp có quy mô vốn trên 100 tỷ đồng, tăng 25,4%. Doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực: Bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy có 5,8 nghìn doanh nghiệp; công nghiệp chế biến, chế tạo có 1.724 doanh nghiệp; xây dựng có 1.336 doanh nghiệp; khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác có 961 doanh nghiệp; kinh doanh bất động sản có 885 doanh nghiệp; dịch vụ lưu trú và ăn uống có 862 doanh nghiệp; dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng, các dịch vụ hỗ trợ khác có 853 doanh nghiệp; vận tải, kho bãi có 617 doanh nghiệp; giáo dục, đào tạo có 580 doanh nghiệp; thông tin truyền thông có 532 doanh nghiệp. Trung bình mỗi tháng có 8,5 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
 
4. Đầu tư
 
Các Bộ ngành và địa phương đang tập trung thực hiện các giải pháp, tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án, công trình với mục tiêu thực hiện tối đa kế hoạch vốn được giao trong năm 2020. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Mười Một ước tính đạt 10,6% so với kế hoạch năm 2020. So với cùng kỳ năm trước, tốc độ tăng vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Mười Một và 11 tháng năm nay tiếp tục đạt mức cao nhất trong giai đoạn 2011-2020[6].
 
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 11/2020 ước tính đạt 54,5 nghìn tỷ đồng, tăng 37,1% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn Trung ương quản lý 11 nghìn tỷ đồng, tăng 51,3%; vốn địa phương quản lý 43,5 nghìn tỷ đồng, tăng 34%. Tính chung 11 tháng năm 2020, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 406,8 nghìn tỷ đồng, bằng 79,3% kế hoạch năm và tăng 34% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 bằng 79,2% và tăng 7%), cụ thể:
 
- Vốn Trung ương quản lý đạt 73,1 nghìn tỷ đồng, bằng 79,5% kế hoạch năm và tăng 64,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Bộ Giao thông Vận tải đạt 20.099 tỷ đồng, bằng 84,9% và tăng 70,2%; Bộ Y tế 4.705 tỷ đồng, bằng 70,5% và tăng 38,9%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 3.737 tỷ đồng, bằng 80,2% và tăng 46,8%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 2.199 tỷ đồng, bằng 71,8% và tăng 83,8%; Bộ Tài nguyên và Môi trường 1.025 tỷ đồng, bằng 64,9% và tăng 14,6%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 556 tỷ đồng, bằng 76,9% và tăng 5%; Bộ Công Thương 350 tỷ đồng, bằng 81,1% và tăng 65,4%; Bộ Xây dựng 306 tỷ đồng, bằng 86,2% và tăng 50,4%; Bộ Khoa học và Công nghệ 200 tỷ đồng, bằng 70,5% và giảm 18,7%; Bộ Thông tin và Truyền thông 101 tỷ đồng, bằng 73,3% và giảm 18,3%.
 
- Vốn địa phương quản lý đạt 333,7 nghìn tỷ đồng, bằng 79,3% kế hoạch năm và tăng 28,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 224,3 nghìn tỷ đồng, bằng 76,7% và tăng 27,8%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 92,4 nghìn tỷ đồng, bằng 83,5% và tăng 31,1%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 17 nghìn tỷ đồng, bằng 95,8% và tăng 27,4%. Vốn thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước 11 tháng năm 2020 của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 40.388 tỷ đồng, bằng 89% kế hoạch năm và tăng 3% so với cùng kỳ năm trước; thành phố Hồ Chí Minh 35.275 tỷ đồng, bằng 73,7% và tăng 58,5%; Quảng Ninh 15.239 tỷ đồng, bằng 87,7% và tăng 46,9%; Bình Dương 11.826 tỷ đồng, bằng 79,3% và tăng 14,6%; Hải Phòng 10.357 tỷ đồng, bằng 71,7% và tăng 13,5%; Thanh Hóa 9.190 tỷ đồng, bằng 89,6% và tăng 29,9%; Bà Rịa - Vũng Tàu 7.309 tỷ đồng, bằng 75,4% và tăng 20,5%; Nghệ An 7.066 tỷ đồng, bằng 91,1% và tăng 41,3%; Bình Định 7.010 tỷ đồng, bằng 86,1% và tăng 30,1%.
 
Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày 20/11/2020 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 26,4 tỷ USD, giảm 16,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 2.313 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 13,6 tỷ USD, giảm 33,5% về số dự án và giảm 7,6% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; có 1.051 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 6,3 tỷ USD, tăng 7,8%; có 5.812 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn đạt 6,5 tỷ USD, giảm 41,8%. Trong tổng số lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 1.535 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị vốn góp gần 2,7 tỷ USD và 4.277 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị hơn 3,8 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 11 tháng ước tính đạt 17,2 tỷ USD, giảm 2,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 12,2 tỷ USD, chiếm 70,7% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 2,5 tỷ USD, chiếm 14,7%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 1,2 tỷ USD, chiếm 6,9%.
 
Trong 11 tháng năm 2020, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được cấp phép mới đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký đạt 6,5 tỷ USD, chiếm 47,8% tổng số vốn đăng ký cấp mới; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 4,9 tỷ USD, chiếm 36,5%; các ngành còn lại đạt 2,2 tỷ USD, chiếm 15,7%. Nếu tính cả vốn đăng ký bổ sung của các dự án đã cấp phép từ các năm trước thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 11,1 tỷ USD, chiếm 55,7% tổng số vốn; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 4,8 tỷ USD[7], chiếm 24,1%; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 2,2 tỷ USD, chiếm 11%; các ngành còn lại đạt 1,8 tỷ USD, chiếm 9,2%. Đối với hình thức góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 1.655 triệu USD, chiếm 25,3% tổng vốn; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 1.612,6 triệu USD, chiếm 24,7%; các ngành còn lại đạt 3,3 tỷ USD, chiếm 50%.
 
Trong số 77 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong 11 tháng, Xin-ga-po là nhà đầu tư lớn nhất với 5,8 tỷ USD, chiếm 42,7% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Đài Loan (TQ) 1,5 tỷ USD, chiếm 10,8%; Trung Quốc 1,4 tỷ USD, chiếm 10,5%; Hàn Quốc 1.142,1 triệu USD, chiếm 8,4%; Đặc khu hành chính Hồng Công (TQ) 1.064,9 triệu USD, chiếm 7,9%; Nhật Bản 678,3 triệu USD, chiếm 5%.
 
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 11 tháng năm 2020 có 114 dự án được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới với tổng số vốn đầu tư của phía Việt Nam là 316,4 triệu USD; có 30 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn tăng thêm đạt 174 triệu USD. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và tăng thêm) 11 tháng đạt 490,4 triệu USD, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 228,2 triệu USD, chiếm 46,5% tổng vốn đầu tư; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm đạt 68,2 triệu USD, chiếm 13,9%; hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ đạt 62,6 triệu USD, chiếm 12,8%; bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 62,3 triệu USD, chiếm 12,7%. Trong 11 tháng có 28 quốc gia và vùng lãnh thổ nhận đầu tư của Việt Nam, trong đó Ôx-trây-li-a là nước dẫn đầu với 101,8 triệu USD, chiếm 20,8%; Đức 92,6 triệu USD, chiếm 18,9%; Lào 88,7 triệu USD, chiếm 18,1%; Hoa Kỳ 69,7 triệu USD, chiếm 14,2%.
 
5. Thu, chi ngân sách Nhà nước
 
Thu ngân sách 15 ngày đầu tháng 11/2020 ước tính đạt 29 nghìn tỷ đồng, giảm nhẹ so với cùng kỳ tháng 10/2020 do một số khoản thu phát sinh theo quý đã nộp vào tháng trước. Chi ngân sách đáp ứng đầy đủ các nhiệm vụ chi phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, thanh toán các khoản nợ đến hạn và hỗ trợ kịp thời cho người dân khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ.
 
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/11/2020 ước tính đạt 1.186,3 nghìn tỷ đồng, bằng 78,4% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 1.001,5 nghìn tỷ đồng, bằng 79,2%; thu từ dầu thô 30,5 nghìn tỷ đồng, bằng 86,5%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 153,5 nghìn tỷ đồng, bằng 73,8%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 123,5 nghìn tỷ đồng, bằng 69,5% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 166,1 nghìn tỷ đồng, bằng 72,6%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 188,8 nghìn tỷ đồng, bằng 69,7%; thu thuế thu nhập cá nhân 102,1 nghìn tỷ đồng, bằng 79,4%; thu thuế bảo vệ môi trường 49,4 nghìn tỷ đồng, bằng 73,1%; thu tiền sử dụng đất 122,8 nghìn tỷ đồng, bằng 128,1%.
 
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/11/2020 ước tính đạt 1.323,2 nghìn tỷ đồng, bằng 75,7% dự toán năm, trong đó chi thường xuyên đạt 884,3 nghìn tỷ đồng, bằng 83,7%; chi đầu tư phát triển 338,3 nghìn tỷ đồng, bằng 71,9%; chi trả nợ lãi 91,5 nghìn tỷ đồng, bằng 77,4%.
 
6. Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch
 
a) Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
 
Hoạt động thương mại và dịch vụ tiêu dùng tháng Mười Một tiếp tục xu hướng phục hồi, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 11/2020 tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt mức tăng cao 13,2% cho thấy nhu cầu mua sắm của người dân đã tăng trở lại. Tính chung 11 tháng năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 2% so với cùng kỳ năm trước.
 
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Mười Một ước tính đạt 464,4 nghìn tỷ đồng, tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 365,7 nghìn tỷ đồng, tăng 2,3% và tăng 13,2%, chủ yếu do các cơ sở kinh doanh trong tháng đưa ra nhiều chương trình khuyến mại đã thu hút người tiêu dùng tới mua sắm; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 47,4 nghìn tỷ đồng, tăng 3,3% và giảm 6,5%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 1,3 nghìn tỷ đồng, tăng 3,5% và giảm 68,3%; doanh thu dịch vụ khác đạt 50 nghìn tỷ đồng, tăng 1,7% và giảm 0,7%.
 
Tính chung 11 tháng năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 4.590,7 nghìn tỷ đồng, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá giảm 2% (cùng kỳ năm 2019 tăng 9,1%).
 
Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa 11 tháng đạt 3.630,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 79,1% tổng mức và tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành hàng lương thực, thực phẩm tăng 10,5%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 7,1%; may mặc tăng 2,6%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 0,2%; phương tiện đi lại giảm 0,2%. Doanh thu bán lẻ hàng hóa 11 tháng so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương: Nghệ An tăng 19,2%; Cần Thơ tăng 16,8%; Thanh Hóa tăng 15,4%; Đồng Nai tăng 12,7%; Hà Nội tăng 10%; Bình Định tăng 9,6%; Khánh Hòa tăng 8,6%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 9,2%; Đà Nẵng giảm 0,2%.
 
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 11 tháng năm nay ước tính đạt 461,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 10% tổng mức và giảm 13,7% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 9,6%). Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 11 tháng năm nay so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương: Khánh Hòa giảm 57,4%; Quảng Nam giảm 51,9%; Đà Nẵng giảm 37,2%; Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 35,9%; thành phố Hồ Chí Minh giảm 35,8%; Quảng Bình giảm 25,2%; Cần Thơ giảm 20,6%; Nghệ An giảm 18,4%; Hà Nội giảm 15,8%; Bình Định giảm 14,5%; Thanh Hóa giảm 11,3%; Hải Phòng giảm 5,3%; Bình Dương giảm 1,7%; Quảng Ninh giảm 1,3%.
 
Doanh thu du lịch lữ hành 11 tháng ước tính đạt 16,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,4% tổng mức và giảm 58,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 9,9%). Một số địa phương có doanh thu du lịch lữ hành 11 tháng giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước: Khánh Hòa giảm 84,3%; Quảng Nam giảm 77,4%;  thành phố Hồ Chí Minh giảm 77%; Đà Nẵng giảm 73,7%; Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 65,8%; Quảng Bình giảm 56,9%; Cần Thơ giảm 55,1%; Hà Nội giảm 46,8%; Bình Định giảm 42,4%; Quảng Ninh giảm 37%; Thanh Hóa giảm 36,6%; Hải Phòng giảm 29,3%.
 
Doanh thu dịch vụ khác 11 tháng ước tính đạt 482,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,5% tổng mức và giảm 4,8% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó doanh thu của Hải Phòng giảm 2,4%; Cần Thơ giảm 3%; Hà Nội giảm 3,9%; Quảng Bình giảm 4,8%; Thừa Thiên - Huế giảm 7,5%; thành phố Hồ Chí Minh giảm 8,3%; Quảng Ninh tăng 9,1%; Bình Dương tăng 5,7%.
 
b) Xuất, nhập khẩu hàng hóa[8]
 
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam 11 tháng năm nay đạt mức xuất siêu kỷ lục 20,1 tỷ USD trong bối cảnh dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp gây ảnh hưởng tiêu cực tới kinh tế thế giới. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa 11 tháng ước tính đạt 489,1 tỷ USD, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 254,6 tỷ USD, tăng 5,3%; nhập khẩu đạt 234,5 tỷ USD, tăng 1,5%[9].
 
Xuất khẩu hàng hóa
 
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa thực hiện tháng 10/2020 đạt 27.259 triệu USD, cao hơn 559 triệu USD so với số ước tính, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện cao hơn 248 triệu USD; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng cao hơn 208 triệu USD; điện thoại và linh kiện cao hơn 149 triệu USD.
 
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 11/2020 ước tính đạt 24,8 tỷ USD, giảm 9% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 7 tỷ USD, giảm 2,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 17,8 tỷ USD, giảm 11,3%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng Mười Một tăng 8,8%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 8,2%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 9%.
 
Tính chung 11 tháng năm 2020, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước tính đạt 254,6 tỷ USD, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 73 tỷ USD, tăng 1,6%, chiếm 28,7% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 181,6 tỷ USD, tăng 6,9%, chiếm 71,3%.
 
Trong 11 tháng có 31 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 92% tổng kim ngạch xuất khẩu (trong đó có 6 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 64,3%), cụ thể: Điện thoại và linh kiện có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, đạt 46,9 tỷ USD, chiếm 18,4% tổng kim ngạch xuất khẩu, giảm 3,4% so với cùng kỳ năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 40,2 tỷ USD, tăng 24,3%; hàng dệt may đạt 26,7 tỷ USD, giảm 10,5%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 23,9 tỷ USD, tăng 44,5%; giày dép đạt 14,9 tỷ USD, giảm 9,8%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 10,9 tỷ USD, tăng 14,1%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 8,1 tỷ USD, tăng 4,1%; thủy sản đạt 7,7 tỷ USD, giảm 0,9%. Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu 11 tháng của hầu hết các mặt hàng nông sản đều giảm so với cùng kỳ năm trước: Rau quả đạt 3 tỷ USD, giảm 11,7%; hạt điều đạt 2,9 tỷ USD, giảm 1,7% (lượng tăng 13,2%); cà phê đạt 2,5 tỷ USD, giảm 2,9% (lượng giảm 3,9%); cao su đạt 2 tỷ USD, giảm 1,4% (lượng tăng 0,4%); hạt tiêu đạt 596 triệu USD, giảm 11,5% (lượng giảm 1,8%); chè đạt 201 triệu USD, giảm 5,3% (lượng tăng 1,2%). Riêng sản phẩm gạo đạt 2,8 tỷ USD, tăng 10,4% (lượng giảm 2,2%).
 
Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu 11 tháng, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản ước tính đạt 138 tỷ USD, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 54,2% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa (tăng 1,9 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước). Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp ước tính đạt 90,2 tỷ USD, tăng 1,5% và chiếm 35,4% (giảm 1,3 điểm phần trăm). Nhóm hàng nông, lâm sản đạt 18,7 tỷ USD, giảm 0,1% và chiếm 7,3% (giảm 0,4 điểm phần trăm). Nhóm hàng thủy sản đạt 7,7 tỷ USD, giảm 0,9% và chiếm 3% (giảm 0,2 điểm phần trăm).
 
Về thị trường xuất khẩu hàng hóa, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong 11 tháng với kim ngạch đạt 69,9 tỷ USD, tăng 25,7% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp đến là Trung Quốc đạt 43,1 tỷ USD, tăng 16%. Thị trường EU đạt 32,2 tỷ USD, giảm 2,4%. Thị trường ASEAN đạt 20,9 tỷ USD, giảm 10,6%. Hàn Quốc đạt 17,7 tỷ USD, giảm 2,7%. Nhật Bản đạt 17,3 tỷ USD, giảm 6,5%.
 
Nhập khẩu hàng hóa
 
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa thực hiện tháng 10/2020 đạt 24.320 triệu USD, thấp hơn 180 triệu USD so với số ước tính, trong đó dầu thô thấp hơn 127 triệu USD; sản phẩm từ sắt thép thấp hơn 68 triệu USD.
 
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 11/2020 ước tính đạt 24,2 tỷ USD, giảm 0,5% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 8,6 tỷ USD, tăng 1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 15,6 tỷ USD, giảm 1,3%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Mười Một tăng 13,4%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 20,8%.
 
Tính chung 11 tháng năm 2020, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước tính đạt 234,5 tỷ USD, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 85,43 tỷ USD, giảm 9,6 %; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 149,07 tỷ USD, tăng 9,2%.  
 
Trong 11 tháng năm 2020 có 34 mặt hàng đạt kim ngạch nhập khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 89,4% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 4 mặt hàng đạt kim ngạch trên 10 tỷ USD, chiếm 49,3%), trong đó điện tử, máy tính và linh kiện đạt 57,4 tỷ USD (chiếm 24,5% tổng kim ngạch nhập khẩu), tăng 22% so với cùng kỳ năm trước; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 33,1 tỷ USD, bằng cùng kỳ năm trước; điện thoại và linh kiện đạt 14,6 tỷ USD, tăng 9,3%; vải đạt 10,6 tỷ USD, giảm 12,3%; chất dẻo đạt 7,5 tỷ USD, giảm 9,4%; sắt thép đạt 7,3 tỷ USD, giảm 16,7%; sản phẩm chất dẻo đạt 6,5 tỷ USD, tăng 9,7%; ô tô đạt 5,5 tỷ USD, giảm 18,5%; kim loại thường đạt 5,4 tỷ USD, giảm 7,5%; sản phẩm hóa chất đạt 5,1 tỷ USD, tăng 3,1%.
 
Về cơ cấu hàng hóa nhập khẩu 11 tháng năm 2020, nhóm hàng tư liệu sản xuất ước tính đạt 218,8 tỷ USD, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 93,3% tổng kim ngạch nhập khẩu; nhóm hàng tiêu dùng ước tính đạt 15,7 tỷ USD, tăng 0,5% và chiếm 6,7%.
 
Về thị trường nhập khẩu hàng hóa trong 11 tháng, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước tính đạt 73,9 tỷ USD, tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước; Hàn Quốc đạt 42 tỷ USD, giảm 2,9%; thị trường ASEAN đạt 27,3 tỷ USD, giảm 6,9%; Nhật Bản đạt 18,6 tỷ USD, tăng 4,8%; thị trường EU đạt 13,2 tỷ USD, tăng 4,3%; Hoa Kỳ đạt 12,6 tỷ USD, giảm 3,6%.
 
Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng 10/2020 xuất siêu 2,9 tỷ USD[10]; 10 tháng xuất siêu 19,5 tỷ USD; tháng Mười Một ước tính xuất siêu 600 triệu USD. Tính chung 11 tháng năm 2020, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu kỷ lục 20,1 tỷ USD[11] (cùng kỳ năm trước xuất siêu 10,8 tỷ USD), trong đó khu vực trong nước nhập siêu 12,4 tỷ USD; khu vực đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 32,5 tỷ USD.
 
c) Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
 
Giá xăng dầu trong nước giảm theo giá nhiên liệu thế giới; giá điện, nước sinh hoạt giảm do nhu cầu tiêu dùng không cao trong mùa mưa là những yếu tố làm chỉ số giá tiêu dùng tháng 11/2020 giảm 0,01% so với tháng trước, tăng 0,08% so với tháng 12/2019 tăng 1,48% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 11 tháng năm 2020 tăng 3,51% so với cùng kỳ năm trước[12].
 
Trong mức giảm 0,01% của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11/2020 so với tháng trước có 3/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm, trong đó: Nhóm giao thông giảm nhiều nhất với 0,47% do ảnh hưởng của đợt điều chỉnh giảm giá xăng, dầu vào thời điểm 27/10/2020, thời điểm 11/11/2020 và đợt điều chỉnh tăng giá xăng, dầu vào thời điểm 26/11/2020 làm chỉ số giá xăng, dầu giảm 1,32% (tác động làm CPI chung giảm 0,05%), bên cạnh đó, giá ô tô mới giảm 0,08%, ô tô đã qua sử dụng giảm 0,45% do các đại lý ô tô đưa ra nhiều gói ưu đãi để kích thích sức mua của người tiêu dùng. Nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,17% do giá điện thoại di động giảm; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,06% do các công ty du lịch đưa ra các chương trình kích cầu du lịch nội địa[13]. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm: Nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,14% do nhu cầu mua sắm khi thời tiết chuyển mùa; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,07%, chủ yếu do giá gas tăng 5,78% (làm CPI chung tăng 0,08%), giá nhóm vật liệu, bảo dưỡng nhà ở tăng 0,17% và giá dầu hỏa tăng 1,37%, mặt khác, do ảnh hưởng của mưa lũ nên nhu cầu sử dụng điện sinh hoạt giảm làm cho chỉ số giá điện giảm 2,27%; giá nước sinh hoạt giảm 0,5%. Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,06%[14]; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,05% (trong đó, lương thực tăng 0,59%[15]; thực phẩm giảm 0,06%[16]); nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,03% do nhu cầu sử dụng các thiết bị và đồ dùng gia đình phục vụ mùa đông tăng khi thời tiết chuyển lạnh; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,01%; nhóm hàng hóa, dịch vụ khác tăng 0,12%. Riêng nhóm giáo dục không thay đổi.
 
CPI tháng 11/2020 tăng 0,08% so với tháng 12/2019 và tăng 1,48% so với cùng kỳ năm trước; CPI bình quân 11 tháng năm 2020 tăng 3,51% so với bình quân cùng kỳ năm 2019.
 
Lạm phát cơ bản tháng 11/2020 tăng 0,03% so với tháng trước và tăng 1,61% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 11 tháng năm 2020 tăng 2,43% so với bình quân cùng kỳ năm 2019.
 
Giá vàng trong nước biến động trái chiều với giá vàng thế giới. Giá vàng thế giới tăng, giảm liên tục bởi ảnh hưởng của cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ và trước các thông tin tích cực về vắc-xin ngừa Covid-19 của các hãng dược Pfizer và Moderna. Bình quân giá vàng thế giới đến ngày 25/11/2020 giảm 1,27% so với tháng 10/2020. Trong nước, khi giá vàng thế giới biến động liên tục với biên độ mạnh, các doanh nghiệp kinh doanh vàng thường đặt ra mức giá mua vào và bán ra chênh lệch cao do lo ngại về rủi ro làm cho giá vàng trong nước chênh lệch khá lớn với giá vàng thế giới sau khi quy đổi (cao hơn trên 3 triệu đồng/lượng). Chỉ số giá vàng tháng 11/2020 tăng 0,87% so với tháng trước; tăng 32,04% so với tháng 12/2019 và tăng 31,57% so với cùng kỳ năm trước.
 
Đồng đô la Mỹ trên thị trường thế giới giảm nhẹ khi số ca nhiễm Covid-19 tại Mỹ tăng. Trong nước, lượng dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam dồi dào đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ của các doanh nghiệp nhập khẩu. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 11/2020 giảm 0,05% so với tháng trước; tăng 0,14% so với tháng 12/2019 và giảm 0,05% so với cùng kỳ năm trước.
 
d) Vận tải hành khách và hàng hóa
 
Việt Nam thành công trong khống chế sự lây lan của dịch Covid-19 làm cho các hoạt động kinh tế - xã hội đang dần phục hồi, nhờ đó hoạt động vận tải tháng 11/2020 tiếp tục tăng 2,3% về lượng hành khách vận chuyển và tăng 5,3% về lượng hàng hóa vận chuyển so với tháng trước. Tính chung 11 tháng năm 2020, vận chuyển hành khách giảm 29,7% và vận chuyển hàng hóa giảm 6,2% so với cùng kỳ năm 2019.
 
Vận tải hành khách tháng Mười Một ước tính đạt 294,8 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 2,3% so với tháng trước và luân chuyển 13,4 tỷ lượt khách.km, tăng 4,5%. Tính chung 11 tháng năm 2020, vận tải hành khách đạt 3.215,9 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 29,7% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 10,9%) và luân chuyển 146 tỷ lượt khách.km, giảm 35,1% (cùng kỳ năm trước tăng 10,7%), trong đó vận tải trong nước đạt 3.213,1 triệu lượt khách, giảm 29,5% và 136,1 tỷ lượt khách.km, giảm 24,3%; vận tải ngoài nước đạt 2,8 triệu lượt khách, giảm 81,3% và 9,9 tỷ lượt khách.km, giảm 78,2%. Xét theo ngành vận tải, tất cả các ngành đường đều giảm, trong đó vận tải hành khách đường bộ 11 tháng đạt 2.985,2 triệu lượt khách, giảm 30,6% so với cùng kỳ năm trước và 109,6 tỷ lượt khách.km, giảm 25,4%; đường thủy nội địa đạt 191,5 triệu lượt khách, giảm 8,3% và 3,4 tỷ lượt khách.km, giảm 18,7%; hàng không đạt 29,4 triệu lượt khách, giảm 41,7% và 31,4 tỷ lượt khách.km, giảm 55,5%; đường biển đạt 6,4 triệu lượt khách, giảm 27% và 278,4 triệu lượt khách.km, giảm 31,4%; đường sắt đạt 3,4 triệu lượt khách, giảm 55% và 1,4 tỷ lượt khách.km, giảm 52,9%.
 
Vận tải hàng hóa tháng 11/2020 ước tính đạt 174,6 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 5,3% so với tháng trước và luân chuyển 30,6 tỷ tấn.km, tăng 2%. Tính chung 11 tháng, vận tải hàng hóa đạt 1.606,3 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, giảm 6,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 9,6%) và luân chuyển 304,2 tỷ tấn.km, giảm 7,9% (cùng kỳ năm trước tăng 7,7%), trong đó vận tải trong nước đạt 1.578 triệu tấn, giảm 5,9% và 164,2 tỷ tấn.km, giảm 9,8%; vận tải ngoài nước đạt 28,3 triệu tấn, giảm 21,2% và 140 tỷ tấn.km, giảm 5,6%. Xét theo ngành vận tải, vận tải hàng hóa đường bộ 11 tháng đạt 1.219,2 triệu tấn, giảm 5,2% so với cùng kỳ năm trước và 81,2 tỷ tấn.km, giảm 12,7%; đường thủy nội địa đạt 308,6 triệu tấn, giảm 10,5% và 61,6 tỷ tấn.km, giảm 9,5%; đường biển đạt 73,7 triệu tấn, giảm 3,6% và 154,8 tỷ tấn.km, giảm 2,5%; đường sắt đạt 4,6 triệu tấn, giảm 1,3% và 3,3 tỷ tấn.km, giảm 1%; đường hàng không đạt 252,9 nghìn tấn, giảm 37,5% và 3,3 tỷ tấn.km, giảm 54,4%.
 
e) Khách quốc tế đến Việt Nam
 
Khách quốc tế đến nước ta tháng 11/2020 đạt 17,7 nghìn lượt người, tăng 19,6% so với tháng trước nhưng giảm 99% so với cùng kỳ năm trước do Việt Nam tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, chưa mở cửa du lịch quốc tế nên lượng khách đến chủ yếu là chuyên gia, lao động kỹ thuật nước ngoài làm việc tại các dự án ở Việt Nam và lái xe vận chuyển hàng hóa tại các cửa khẩu đường bộ. Tính chung 11 tháng năm 2020, khách quốc tế đến nước ta đạt 3,8 triệu lượt người, giảm 76,6% so với cùng kỳ năm trước.
 
Khách quốc tế đến nước ta trong tháng 11/2020 ước tính đạt 17,7 nghìn lượt người, tăng 19,6% so với tháng trước và giảm 99% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chủ yếu là khách đến từ Trung Quốc, Hàn Quốc và Lào, chiếm 75,3% lượng khách đến trong tháng. Tính chung 11 tháng năm 2020, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 3.821 nghìn lượt người, giảm 76,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng đường hàng không đạt 3.073,8 nghìn lượt người, chiếm 80,4% lượng khách quốc tế đến Việt Nam, giảm 76,4%; bằng đường bộ đạt 602,6 nghìn lượt người, chiếm 15,8% và giảm 80,3%; bằng đường biển đạt 144,6 nghìn lượt người, chiếm 3,8% và giảm 37,8%.
 
Trong 11 tháng năm nay, khách đến từ châu Á đạt 2.799,1 nghìn lượt người, chiếm 73,3% tổng số khách quốc tế đến nước ta, giảm 78,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khách đến từ các thị trường chính đều giảm mạnh: Trung Quốc đạt 952,6 nghìn lượt người, giảm 81,8% so với cùng kỳ năm trước; Hàn Quốc 836,7 nghìn lượt người, giảm 78,4%; Nhật Bản 204,5 nghìn lượt người, giảm 76,6%; Đài Loan 195,6 nghìn lượt người, giảm 76,9%; Thái Lan 127,5 nghìn lượt người, giảm 71,7%; Cam-pu-chia 121,8 nghìn lượt người, giảm 39,2%; Ma-lai-xi-a 116,9 nghìn lượt người, giảm 78,2%.
 
Khách đến từ châu Âu trong 11 tháng ước tính đạt 670,7 nghìn lượt người, giảm 66,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Liên bang Nga 246,2 nghìn lượt người, giảm 58%; Vương quốc Anh 82,2 nghìn lượt người, giảm 71,9%; Pháp 75,1 nghìn lượt người, giảm 71,7%; Đức 61,9 nghìn lượt người, giảm 70,2%. Khách đến từ châu Mỹ ước tính đạt 236,1 nghìn lượt người, giảm 73,5% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là khách đến từ Hoa Kỳ đạt 173,8 nghìn lượt người, giảm 74,6%. Khách đến từ châu Úc đạt 102,7 nghìn lượt người, giảm 74,3%, trong đó khách đến từ Ôx-trây-li-a đạt 92,7 nghìn lượt người, giảm 73,8%. Khách đến từ châu Phi đạt 12,4 nghìn lượt người, giảm 71,1% so với cùng kỳ năm 2019.
 
7. Một số tình hình xã hội
 
a) Đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội
 
 Tháng Mười Một đời sống dân cư nhìn chung ổn định, đây là tháng thứ 6 liên tiếp không phát sinh thiếu đói trên phạm vi cả nước. Tính chung 11 tháng năm nay, cả nước có 16,5 nghìn lượt hộ thiếu đói, tương ứng với 66,5 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 75,9% về số lượt hộ thiếu đói và giảm 76,1% về số lượt nhân khẩu thiếu đói so với cùng kỳ năm trước. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm, các cấp, các ngành, các tổ chức từ Trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 733,6 tấn gạo.
 
Để hỗ trợ người dân bị ảnh hưởng của bão lũ, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 1815/QĐ-TTg ngày 15/11/2020 tạm cấp kinh phí 80 tỷ đồng để hỗ trợ khẩn cấp khắc phục hậu quả mưa lũ tại các tỉnh Miền trung và Quyết định số 1823/QĐ-TTg ngày 17/11/2020 về việc xuất cấp 4,3 nghìn tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc gia cho các tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An và Bình Định.
 
b) Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
 
Trong tháng (19/10-18/11/2020), cả nước có 23.188 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (3 trường hợp tử vong); 20.084 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 103 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do vi rút; 123 trường hợp sốt phát ban nghi sởi, trong đó có 37 trường hợp dương tính. So với cùng kỳ năm trước số trường hợp mắc sốt xuất huyết giảm 49,6%; số trường hợp mắc bệnh tay chân miệng giảm 10,6%. Tuy nhiên, so với tháng 10/2020, số trường hợp mắc sốt xuất huyết tăng 19,7%; số trường hợp mắc bệnh tay chân miệng tăng 30,1%. Tính chung 11 tháng, cả nước có 107.599 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (16 trường hợp tử vong); 63.987 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 552 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do vi rút (10 trường hợp tử vong); 12 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu và 3.154 trường hợp sốt phát ban nghi sởi, trong đó có 284 trường hợp dương tính. Tính đến ngày 18/11/2020, cả nước ghi nhận 241 trường hợp dương tính với bạch hầu (5 trường hợp tử vong).
 
Dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp tại nhiều quốc gia[17], 5 quốc gia có số ca mắc Covid-19 nhiều nhất thế giới là Mỹ, Ấn Độ, Bra-xin, Nga và Pháp. Tại Việt Nam, tính đến 18h00 ngày 27/11/2020 có 1.339 trường hợp mắc Covid-19, 1.170 trường hợp đã được chữa khỏi (35 trường hợp tử vong) và đã 86 ngày liên tiếp không ghi nhận ca mắc mới trong cộng đồng.
 
Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 18/11/2020 là 210.944 người; số người đã chuyển sang giai đoạn AIDS là 97.095 người và số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 99.077 người.
 
Về ngộ độc thực phẩm, trong tháng Mười Một xảy ra 9 vụ với 214 người bị ngộ độc (1 người tử vong). Tính chung 11 tháng năm 2020, cả nước xảy ra 90 vụ với 2.254 người bị ngộ độc (22 người tử vong).
 
c) Tai nạn giao thông
 
Trong tháng (từ 15/10 đến 14/11), trên địa bàn cả nước xảy ra 1.332 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 778 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 554 vụ va chạm giao thông, làm 592 người chết, 425 người bị thương và 597 người bị thương nhẹ. So với tháng trước, số vụ tai nạn giao thông tăng 2,5%; số người chết tăng 2,1% và số người bị thương tăng 7,3%. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tháng Mười Một giảm 18,5% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 9,5% và số vụ va chạm giao thông giảm 28,4%); số người chết giảm 9,9%; số người bị thương giảm 11,6% và số người bị thương nhẹ giảm 24,4%.
 
Tính chung 11 tháng năm 2020, trên địa bàn cả nước xảy ra 12.985 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 7.495 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 5.490 vụ va chạm giao thông, làm 6.048 người chết, 3.948 người bị thương và 5.704 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông trong 11 tháng giảm 18,3% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 10,8%; số vụ va chạm giao thông giảm 26,6%); số người chết giảm 13,3%; số người bị thương giảm 14% và số người bị thương nhẹ giảm 24,5%. Bình quân 1 ngày trong 11 tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 38 vụ tai nạn giao thông, gồm 22 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 16 vụ va chạm giao thông, làm 18 người chết, 12 người bị thương và 17 người bị thương nhẹ.
 
d) Thiệt hại do thiên tai
 
 Thiên tai xảy ra trong tháng Mười Một chủ yếu là mưa bão, lũ lụt và sạt lở tại một số địa phương làm 104 người chết và mất tích, 388 người bị thương; 2,1 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi; 249,8 nghìn ngôi nhà bị hư hỏng; 5,6 nghìn con gia súc và 1,5 triệu con gia cầm bị chết; 66,7 nghìn ha lúa và 35,4 nghìn ha hoa màu bị hư hỏng, tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong tháng là 18,7 nghìn tỷ đồng. Một số địa phương chịu thiệt hại nặng nề do thiên tai: Quảng Nam 48 người chết và mất tích, 249 người bị thương; 714 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi; 52,9 nghìn ngôi nhà bị hư hỏng; 130,6 nghìn con gia súc, gia cầm bị chết; 3,5 nghìn ha lúa, hoa màu bị hư hỏng, thiệt hại về tài sản ước tính 8,5 nghìn tỷ đồng; Bình Định 24 người chết và mất tích, 31 người bị thương; 11,8 nghìn ngôi nhà bị hư hỏng; 78,6 nghìn con gia súc, gia cầm bị chết; 4,1 nghìn ha lúa, hoa màu bị hư hỏng, thiệt hại ước tính hơn 1 nghìn tỷ đồng; Thừa Thiên - Huế 13 người chết, 50 người bị thương; hơn 6 nghìn ngôi nhà bị hư hỏng; 57,6 nghìn con gia súc, gia cầm bị chết;  thiệt hại về tài sản ước tính 1,5 nghìn tỷ đồng; Nghệ An 10 người chết, 6 người bị thương; 2,2 nghìn ngôi nhà bị sập đổ và hư hỏng; 32,6 nghìn con gia súc, gia cầm bị chết; 10,9 nghìn ha lúa, hoa màu bị hư hỏng, thiệt hại về tài sản ước tính 786,5 tỷ đồng.
 
Tính chung 11 tháng năm 2020, thiên tai làm 372 người chết và mất tích, 1.144 người bị thương; 4.132 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi; 613,3 nghìn ngôi nhà bị hư hỏng; 267 nghìn ha lúa và 132,5 nghìn ha hoa màu bị hư hỏng; tổng giá trị thiệt hại về tài sản ước tính 38,4 nghìn tỷ đồng, trong đó thiệt hại do bão, lũ là 31,7 nghìn tỷ đồng.
 
e) Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ
 
Trong tháng 11/2020, cơ quan chức năng đã phát hiện 971 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 799 vụ với tổng số tiền phạt là 17,1 tỷ đồng. Tính chung 11 tháng năm nay đã phát hiện 13.616 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 12.071 vụ với tổng số tiền phạt là 162,2 tỷ đồng.
 
Trong tháng, cả nước xảy ra 225 vụ cháy, nổ, làm 12 người chết và 18 người bị thương, thiệt hại ước tính 96,3 tỷ đồng. Tính chung 11 tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 2.643 vụ cháy, nổ, làm 99 người chết và 159 người bị thương, thiệt hại ước tính 558,4 tỷ đồng./.
 
 TỔNG CỤC THỐNG KÊ 
 

[1] Diện tích gieo cấy lúa mùa của cả nước năm 2020 đạt 1.584,6 nghìn ha, giảm 27 nghìn ha so với vụ mùa năm trước, chủ yếu do chuyển đổi mục đích sử dụng đất, chuyển đổi cơ cấu sản xuất và do ảnh hưởng bởi các đợt nắng nóng kéo dài, thiếu nước tưới hoặc bị nhiễm mặn nên không xuống giống, trong đó các địa phương phía Bắc đạt 1.050,2 nghìn ha, giảm 20,7 nghìn ha; các địa phương phía Nam đạt 534,4 nghìn ha, giảm 6,3 nghìn ha. Một số địa phương có diện tích lúa mùa giảm nhiều là: Hưng Yên giảm 1,9 nghìn ha; Hà Nội giảm 2,4 nghìn ha; Hải Phòng giảm 2,7 nghìn ha; Ninh Thuận giảm 2,9 nghìn ha; Thanh Hóa giảm 4,7 nghìn ha.
[2] Hà Nội, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Quảng Nam, Gia Lai, Đắk Lắk, Bình Phước, Khánh Hòa, Tiền Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Bạc LiêuCà Mau.
[3] Giá tôm thẻ chân trắng kích cỡ 70-100 con/kg tăng từ 3.500-6.400 đồng/kg.
[4] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Báo cáo nhận ngày 25/11/2020).
[5] So với cùng kỳ năm trước, số doanh nghiệp tăng 6,7%; số vốn đăng ký tăng 103,5%; lao động tăng 6,3%.
[6] Tốc độ tăng/giảm vốn thực hiện từ nguồn NSNN tháng Mười Một so với cùng kỳ năm trước các năm 2011-2020 lần lượt là: Tăng 9,5%; giảm 4,9%; tăng 4,5%; giảm 2%; tăng 16,7%; tăng 22,5%; tăng 10,2%; tăng 14,6%; tăng 9,1%; tăng 37,1%. Tốc độ tăng/giảm vốn thực hiện từ nguồn NSNN 11 tháng so với cùng kỳ năm trước các năm 2011-2020 lần lượt là: Tăng 10,3%; tăng 7,1%; giảm 0,2%; tăng 0,8%; tăng 9,6%; tăng 15%; tăng 7,5%; tăng 12,4%; tăng 7%; tăng 34%.
[7] Ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí có 7 dự án điều chỉnh vốn làm giảm 153,7 triệu USD.
[8] Số liệu tháng 11/2020 do Tổ liên ngành gồm Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Tổng cục Hải quan và Tổng cục Thống kê họp ước tính căn cứ trên số liệu kim ngạch xuất, nhập khẩu tính đến ngày 27/11/2020 của Tổng cục Hải quan kết hợp với thông tin thị trường, tỷ trọng và xu hướng xuất, nhập khẩu các mặt hàng. Tổng cục Thống kê nhận được và cập nhật báo cáo vào ngày 28/11/2020.
Số liệu xuất, nhập khẩu hàng hóa phân theo khu vực kinh tế trong nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài điều chỉnh theo thông báo của Tổng cục Hải quan
(https://www.customs.gov.vn/Lists/ThongKeHaiQuan/ViewDetails.aspxID=1875&Category=Th%C3%B4ng%20b%C3%A1o%20c%C3%B4ng%20b%E1%BB%91&Group=C%C3%B4ng%20b%E1%BB%91%20th%C3%B4ng%20tin&fbclid=IwAR1QQIRucm085hPkMNMx4x7cj9-gFQ0XJp9hYiSXxVqNRAH_lKoccNXv2bs)
[9] Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa 11 tháng năm 2019 đạt 472,7 tỷ USD, tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 241,7 tỷ USD, tăng 8%; nhập khẩu đạt 231 tỷ USD, tăng 6,8%.
[10] Ước tính xuất siêu 2,2 tỷ USD.
[11] Trong đó, xuất siêu sang EU đạt 19 tỷ USD, giảm 6,6% so với cùng kỳ năm trước; nhập siêu từ Trung Quốc 30,8 tỷ USD, giảm 1,7%; nhập siêu từ Hàn Quốc 24,3 tỷ USD, giảm 3,1%; nhập siêu từ ASEAN 6,4 tỷ USD, tăng 7,5%.
[12] Tốc độ tăng CPI bình quân 11 tháng so với cùng kỳ năm trước các năm 2016-2020 lần lượt là: 2,47%; 3,61%; 3,59%; 2,57%; 3,51%. 
[13] Giá dịch vụ du lịch trọn gói giảm 0,22%; giá khách sạn, nhà khách giảm 0,11%; giá dịch vụ giải trí giảm 0,04%.
[14] Trong đó, giá rượu các loại tăng 0,07%; giá thuốc lá tăng 0,11%; giá nước uống giải khát có gas tăng 0,02%.
[15] Do giá gạo tăng 0,75% nhằm chuẩn bị nguồn hàng xuất khẩu và phục vụ nhu cầu dự trữ lương thực do tình hình bão, lũ tại miền Trung kéo dài.
[16] Chủ yếu do giá thịt lợn giảm 3,44%; giá các sản phẩm chế biến từ thịt lợn giảm (giá thịt quay, giò chả giảm 1,33%; nội tạng động vật giảm 1,74%; mỡ ăn giảm 5,25%); giá các loại quả có múi như cam, quýt, bưởi giảm 3,32%; giá thịt gia cầm giảm 0,86%.
[17] Tính đến 18h00 ngày 27/11/2020, trên thế giới có 61.398,5 nghìn trường hợp mắc Covid-19 (1.439,6 nghìn trường hợp tử vong).

Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top