Tổng quan kinh tế -xã hội Việt Nam quý II và 6 tháng đầu năm 2019

16/08/2019 - 03:49 PM
BỐI CẢNH KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC

Kinh tế - xã hội nước ta 6 tháng đầu năm 2019 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới có xu hướng tăng trưởng chậm lại với các yếu tố rủi ro, thách thức gia tăng. Căng thẳng gần đây giữa các nền kinh tế lớn khiến thương mại và đầu tư thế giới giảm, niềm tin kinh doanh toàn cầu giảm sút. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) nhận định kinh tế quốc tế phải đối mt với thời kbt trắc caokhi 70% nền kinh tế trên thế giới trong đó hầu hết các nền kinh tế phát triển đều rơi vào tình trạng tăng trưởng chậm lại1. Hoạt động kinh tế tại các quốc gia phát triển, đặc biệt là khu vực đồng Euro cũng như một số thị trường mới nổi yếu hơn so với dự kiến, các tổ chức quốc tế đều đưa ra dự báo thiếu lạc quan về tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2019. Bốn“đám mây đen” bao phủ kinh tế thế giới ngày càng lan rộng: (i) Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung; (ii) Hàng rào thuế quan ngày càng leo thang, các nước lớn cắt giảm mạnh chi tiêu; (iii) Những bt ổn từ hiện tượng Brexit; (iv) Sự hụt hơi của nền kinh tế Trung Quốc. Vì vy, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã hạ dự báo mức tăng trưởng toàn cầu năm 2019 xuống 3,3%, thấp hơn 0,2 điểm phần trăm so với dự báo 3,5% trước đó và đây là lần thứ hai trong năm IMF giảm dự báo tăng trưởng toàn cầu; Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) cũng hạ mức dự báo thấp hơn 0,1 điểm phần trăm, xuống còn 3,2% cho tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2019; trong khi đó, Ngân hàng Thế giới (WB) chỉ dự báo mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2019 đạt 2,6%, giảm 0,3 điểm phần trăm so với mức 2,9% mà tổ chức này dự báo hồi tháng Một. Các điểm nóng địa chính trị có dấu hiệu phức tạp và tăng nhiệt. Mỹ tăng cường trừng pht Iran, giá dầu và đồng Đô la Mỹ diễn biến phức tạp cũng thách thức đối với kinh tế thế giới và ảnh hưởng xấu tới kinh tế Việt Nam.

Trong nước, nền kinh tế 6 tháng đầu năm tiếp tục chuyển biến tích cực, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp nhưng cũng đối mặt không ít khó khăn, thách thức với thời tiết diễn biến phức tạp ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng cây trồng; ngành chăn nuôi gặp khó khăn với dịch tả lợn châu Phi ngày càng lây lan trên diện rộng; tăng trưởng chậm lại của một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực; giải ngân vốn đầu tư công đạt thấp.

Trước tình hình đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã khẩn trương chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp tại các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, đặc biệt là Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2019 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2019 và ngay đầu quý II, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 09/CT-TTg ngày 01/4/2019 về các giải pháp tập trung tháo gỡ cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm mục tiêu tăng trưởng 6 tháng và cả năm 2019, đồng thời thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra tình hình thực hiện trong từng tháng, từng quý, nhờ đó nền kinh tế nước ta quý II 6 tháng đầu năm tiếp tục chuyển biến tích cực:

I.   KẾT QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI QUÝ II 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2019

Tổng sản phẩm trong nước 6 tháng đầu năm 2019 đạt mức tăng trưởng khá 6,76%, kinh tế vĩ mô ổn định, xuất khẩu tạo dấu ấn quan trọng, niềm tin người tiêu dùng đạt mức kỷ lục, lạm phát được kiểm soát thấp nhất trong 3 năm 2017-2019. Tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm giảm dần, thu nhập của người lao động có xu hướng tăng, chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực. An sinh xã hội được quan tâm thực hiện. Năng lực sản xuất của nền kinh tế mở rộng, tạo đà cho kinh tế nước ta phát triển trong những tháng tiếp theo.

1. Tăng trưởng kinh tế

(1) GDP quý II/2019 ước tính tăng 6,71% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,19%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,14%; khu vực dịch vụ tăng 6,85%. Tăng trưởng quý II/2019 thấp hơn tăng trưởng quý II/2018 chỉ 0,02 điểm phần trăm nhưng cao hơn tăng trưởng quý II các năm 2011-20172.

(2) 
GDP 6 tháng đầu năm 2019 tăng 6,76%, thấp hơn mức tăng của cùng kỳ năm 2018 nhưng cao hơn mức tăng của 6 tháng các năm 2011-20173, khẳng định tính kịp thời và hiệu quả của các giải pháp của Chính phủ ban hành để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh và thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2019. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,39%,
đóng góp 6% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,93%, đóng góp 51,8%; khu vực dịch vụ tăng 6,69%, đóng góp 42,2%. Trên góc độ sử dụng GDP 6 tháng đầu năm 2019, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,05% so với cùng kỳ năm 2018; tích lũy tài sản tăng 7,12%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 7,06%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 7,98%.
 
(3) Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, với mức tăng 6,45%, ngành thủy sản đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất của 6 tháng trong 9 năm trở lại đây với sản lượng thủy sản nuôi trồng và khai thác đều tăng khá. Chăn nuôi gia cầm phát triển tốt, thị trường tiêu thụ ổn định, người chăn nuôi yên tâm mở rộng quy mô đàn. Ước tính tổng số gia cầm của cả nước tháng Sáu tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm 2019 đạt 660,9 nghìn tấn, tăng 8,6%; sản lượng trứng gia cầm 6 tháng đạt gần 7 tỷ quả, tăng 11,4%.

Tuy nhiên, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản cũng đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức: (i) Gieo trồng a đông xuân m nay đầu vgặp thuận lợi về thời tiết, sau đó thời tiết trái vụ, nắng nóng kéo dài làm giảm năng suất. Sản lượng lúa đông xuân cả nước ước tính đạt 20,5 triệu tấn, giảm 84,5 nghìn tấn so với vụ đông xuân năm 2018. (ii) Ngành chăn nuôi đang phải đối mặt với diễn biến phức tạp của dịch tả lợn châu Phi lây lan trên diện rộng. Tính đến ngày 25/6/2019, dịch tả lợn châu Phi đã xảy ra tại 60 địa phương. Tổng số lợn phải tiêu hủy trên cả nước là 2,82 triệu con, chiếm 10% tổng đàn. Tổng đàn lợn của cả nước tháng Sáu giảm 10,3% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 6 tháng đạt 1.801,2 nghìn tấn, giảm 4,7%.

(4) Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2019 duy trì tăng trưởng khá ở mức 9,13% so với cùng kỳ năm trước; ngành xây dựng tăng 7,85%.

Ngành chế biến, chế tạo tiếp tục giữ vai trò chủ chốt dẫn dắt mức tăng trưởng chung của ngành công nghiệp và toàn nền kinh tế với mức tăng 11,18%, tuy thấp hơn mức tăng của cùng kỳ năm 2018 nhưng cao hơn so với mức tăng 6 tháng đầu năm của các năm 2012-20174; sản xuất và phân phối điện tăng 10,63%; cung cấp nước tăng 7,79%; đặc biệt ngành khai khoáng bước đầu có mức tăng nhẹ 1,78% sau 3 năm liên tiếp giảm5 nhờ khai thác than tăng cao, bù đắp cho sự sụt giảm của khai thác dầu thô.

(5) Trong khu vực dịch vụ, các ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng đóng góp lớn vào mức tăng trưởng chung của nền kinh tế hầu hết 6 tháng đầu năm nay đều đạt mức tăng trưởng khá: Bán buôn và bán lẻ tăng 8,09%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,9%; vận tải, kho bãi tăng 7,89%... Hoạt động thương mại dịch vụ 6 tháng đầu năm 2019 có mức tăng trưởng cao, sức mua tiêu dùng trong dân tăng, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đạt 2.391,1 nghìn tỷ đồng, tăng 11,5% so với cùng kỳ năm trước.

(6) Về cơ cấu nền kinh tế 6 tháng đầu năm nay, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 13,55% GDP; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 34,2%; khu vực dịch vụ chiếm 42,04%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10,21%.

(7) Bên cạnh đó, một số chỉ tiêu khác cũng cho thấy dấu hiệu tích cực của nền kinh tế:

Theo báo cáo của Nikkei, tâm lý kinh doanh vẫn rất lạc quan khi chỉ số PMI của Việt Nam trong những tháng đầu năm nay tiếp tục duy trì mức 52 điểm – mức cao hơn các nước trong khu vực, các nhà sản xuất cho rằng sản lượng sẽ tăng trong thời gian tới và kvọng nhu cầu thị trường cải thiện, số lượng đơn đt hàng mới tăng.

Chỉ số niềm tin người tiêu dùng (CCI) Việt Nam một lần nữa đạt mức kỷ lục trong quý I/2019 khi tăng 7 điểm so với cuối năm 2018, vươn lên vị trí thứ 3 trên thế giới, điều này thể hiện sự lạc quan về khả năng tài chính cá nhân cũng như mức độ sẵn sàng chi tiêu của người Việt Nam.

Theo kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo do Tổng cục Thống kê thực hiện trong quý II/2019 cũng cho thấy đa số các doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn. Đặc biệt, các doanh nghiệp lạc quan với tình hình sản xuất kinh doanh trong quý III/2019 với 88,6% số doanh nghiệp (DN) đánh giá xu hướng sẽ tốt lên và ổn định (52% DN dự báo tốt lên và 36,6% dự báo ổn định).

Về khối lượng sản xuất, có 89,4% số DN dự báo khối lượng sản xuất của quý III tăng lên và giữ ổn định (53,1% DN dự báo tăng và 36,3% DN giữ ổn định).

Về đơn đặt hàng, có tới 89,7% DN dự báo tăng và giữ ổn định (47,9% DN dự báo tăng và 41,8% giữ ổn định).

Về đơn đặt hàng xuất khẩu, có 89,6% DN dự báo tăng và giữ ổn định, trong đó số DN dự báo tăng là 41,7% và 47,9% dự báo giữ ổn định.

2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

 
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa 6 tháng đầu năm 2019 ước tính đạt 245,48 tỷ USD, mức cao nhất của 6 tháng từ trước đến nay.

(1) Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 6 tháng đạt 122,72 tỷ USD, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước có tốc độ tăng 10,8%, cao hơn tốc độ tăng 5,9% của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Trong 6 tháng đầu năm nay có 22 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 86,9% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó điện thoại và linh kiện đạt 23,5 tỷ USD; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 15,5 tỷ USD; giày dép đạt 8,8 tỷ USD; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 8,2 tỷ USD; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 4,9 tỷ USD; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 4,3 tỷ USD...; đáng chú ý là 6 tháng đầu năm nay được bổ sung thêm 2 mặt hàng mới đạt giá trị trên 2 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước là rau quả và xơ, sợi dệt với kim ngạch xuất khẩu đạt lần lượt là 2,08 tỷ USD và 2,01 tỷ USD. Do giá xuất khẩu bình quân của hầu hết các mặt hàng nông sản giảm so với cùng kỳ nên kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông, thủy sản 6 tháng đầu năm nay tăng thấp hoặc giảm.
 
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2019, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 27,5 tỷ USD, tăng 27,4% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là thị trường EU đạt 20,6 tỷ USD, giảm 0,4%; Trung Quốc đạt 16,8 tỷ USD, tăng 1%; thị trường ASEAN đạt 13,1 tỷ USD, tăng 6,7%; Nhật Bản đạt 9,7 tỷ USD, tăng 9,1%; Hàn Quốc đạt 9,2 tỷ USD, tăng 6%.

(2) Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu 6 tháng ước tính đạt 122,76 tỷ USD, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 52,54 tỷ USD, tăng 14,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 70,22 tỷ USD, tăng 7,8%.

Về thị trường hàng hóa nhập khẩu 6 tháng đầu năm nay, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 36,8 tỷ USD, tăng 21,8% so với cùng kỳ năm trước; tiếp theo là thị trường Hàn Quốc đạt 22,9 tỷ USD, tăng 1%; thị trường ASEAN đạt 16,3 tỷ USD, tăng 6,4%; Nhật Bản đạt 8,8 tỷ USD, giảm 0,7%; Hoa Kỳ đạt 7,1 tỷ USD, tăng 17,1%; thị trường EU đạt 6,9 tỷ USD, tăng 9,1%.

(3) Cán n thương mại hàng a 6 tháng đầu m 2019 ước tính nhập siêu 34 triệu USD6 (bằng 0,03% tổng kim ngạch xuất khẩu 6 tháng).


Trả lời cho câu hỏi của phóng viên về triển vọng tăng trưởng GDP cả năm 2019 có đạt mục tiêu Chính phủ đề ra, chuyên gia của Tổng cục Thống kê cho rằng, tháng đầu năm 2019, GDP đạt tốc độ tăng trưởng khá 6,76%, với đà này mục tiêu cả năm từ 6,6%-6,8% là hoàn toàn khả thi.

Các yếu tố giúp đạt mục tiêu tăng trưởng được chuyên gia đề cập đến là: Sản xuất ngành công nghiệp chế biến chế tạo dù tốc độ tăng trưởng giảm nhẹ so cùng kỳ năm 2018, song vẫn đạt mức tăng khá, bên cạnh đó tình hình sản xuất kinh doanh của khu vực này được đánh giá là khả quan. Hoạt động khu vực dịch vụ sôi động, đặc biệt ở nhóm tài chính, bảo hiểm. Công nghiệp khai khoáng tăng trưởng dương, sau nhiều năm tăng trưởng âm. Tiêu dùng dân cư cao, sức cầu trong nước liên tục được cải thiện. Chỉ số giá tiêu dùng duy trì ổn định. Tiến độ giải ngân 6 tháng đầu năm tuy còn chậm, song có khả năng đạt cao vào 6 tháng cuối năm. Các Hiệp định thương mại có hiệu lực tác động tích cực đến hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu…
 

  
II.   KẾT QUẢ CỦA NHÀ NƯỚC KIẾN TẠO

1. Tình hình đăng ký doanh nghiệp

Trong 6 tháng đầu năm nay, cả nước có gần 67 nghìn doanh nghiệp đăng thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 860,2 nghìn tỷ đồng, tăng 3,8% về số doanh nghiệp tăng 32,5% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2018; vốn đăng bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 12,8 tỷ đồng, tăng 27,7%. Nếu  tính cả 1.310,3 nghìn tỷ đồng vốn đăng tăng thêm của các doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung thêm vào nền kinh tế trong 6 tháng đầu năm 2019 2.170,5 nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, còn 21,6 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 31,4% so với cùng kỳ năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp đăng thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 6 tháng năm nay lên gần 88,6 nghìn doanh nghiệp. Tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới trong 6 tháng đầu năm nay là 649 nghìn người, tăng 27,6% so với cùng kỳ năm trước.

 
Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn trong 6 tháng đầu năm nay là 21,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 17,4% so với cùng kỳ năm trước; doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể là 21,8 nghìn, trong đó có gần 11 nghìn doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo chương trình chuẩn hóa dữ liệu từ năm 2018; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể là 7,8 nghìn doanh nghiệp, tăng 18,1%.
 
2. Thu hút đầu tư nước ngoài

Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/6/2019 đạt kỷ lục về số dự án đăng ký cấp mới trong 6 tháng đầu năm và số vốn thực hiện cao nhất trong nhiều năm trở lại đây7, thu hút 1.723 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 7.411,8 triệu USD. Bên cạnh đó, có 628 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 2.935,4 triệu USD, giảm 33,8% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, tổng số vốn đăng ký cấp mới và vốn tăng thêm trong 6 tháng đầu năm 2019 đạt 10.347,2 triệu USD, giảm 36,3% so với cùng kỳ năm 2018. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 6 tháng ước tính đạt 9,1 tỷ USD, tăng 8,1% so với cùng kỳ năm 2018. Trong 6 tháng còn có 4.020 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn là 8,12 tỷ USD, tăng 98,1% so với cùng kỳ năm 2018.

Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 6 tháng năm nay có 71 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn của phía Việt Nam là 103,9 triệu USD; 19 dự án điều chỉnh vốn với số vốn tăng thêm là 96,1 triệu USD. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và tăng thêm) 6 tháng năm 2019 đạt 200 triệu USD.

3. Khách quốc tế đến Việt Nam

Việt Nam tiếp tục là điểm đến thu hút khách du lịch quốc tế, lượng khách liên tục đạt mức trên 1 triệu lượt người mỗi tháng kể từ đầu năm 2019. Tính chung 6 tháng, khách quốc tế đến nước ta đạt gần 8,5 triệu lượt người, tăng 7,5% so vi cùng kỳ m trước, trong đó tăng cao nht là khách đến bằng đường bvi 24,9%, đt 1.683,5 nghìn lượt người, tiếp đến là đường hàng không tăng 4,5%, đạt 6.658,3 nghìn lượt người. Tuy nhiên, lượng khách đang có xu hướng giảm dần, tháng Sáu có lượng khách quốc tế thấp nhất kể từ đầu năm. So với cùng kỳ năm trước, khách quốc tế đến nước ta trong tháng Sáu chỉ tăng 0,2%, chủ yếu do khách đến từ châu Á chiếm phần lớn lượng khách đến nước ta giảm 0,4%; từ châu Úc giảm 6%;trong khi khách đến từ châu Âu tăng 2,3%; tchâu Mtăng 7,4% và tchâu Phi tăng 6,9%, đồng thời tc đtăng lượng khách trong 6 tháng đầu năm nay thấp hơn nhiều so với mức tăng giai đoạn 2016-20188.

4. Lạm phát được kiểm soát

Với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát của Chính phủ, sự chủ động điều hành giá xăng dầu, giá gas, giá điện, giá sách giáo khoa và giá dịch vụ y tế vào các thời điểm phù hợp, nguồn cung gạo dồi dào… là những yếu tố góp phần làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2019 giảm 0,09% so với tháng trước, tính chung quý II/2019, CPI tăng 0,74% so với quý trước và tăng 2,65% so với cùng kỳ năm 2018, bình quân 6 tháng đầu năm 2019 tăng 2,64% so với cùng kỳ năm 2018, đây là mức tăng bình quân 6 tháng thấp nhất trong 3 năm gần đây9.

Lạm phát cơ bản bình quân 6 tháng đầu năm 2019 tăng 1,87% so với bình quân cùng kỳ năm 2018.

5. Lao động việc làm và thu nhập

Tình hình lao động, việc làm cả nước trong 6 tháng đầu năm 2019 có nhiều tín hiệu khả quan. So với cùng kỳ năm trước, số người có việc làm tăng lên, chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực, giảm mạnh tỷ trọng lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng và khu vực dịch vụ. Tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm giảm dần, thu nhập của người lao động làm công hưởng lương có xu hướng tăng.

Lao động 15 tuổi trở lên có việc làm trong 6 tháng đầu năm 2019 là 54,3 triệu người. Tỷ lệ thất nghiệp chung cả nước 6 tháng năm 2019 là 1,99%, trong đó khu vực thành thị là 2,95%; khu vực nông thôn là 1,51%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi 6 tháng đầu năm nay là 1,29%, trong đó khu vực thành thị là 0,77%; khu vực nông thôn là 1,57%.

Thu nhập bình quân tháng của lao động làm công hưởng lương 6 tháng đầu năm 2019 ước tính là 6,7 triệu đồng/tháng, trong đó, thu nhập của lao động nam là 7,1 triệu đồng/tháng, lao động nữ là 6,3 triệu đồng/tháng, lao động thành thị là 7,8 triệu đồng/tháng, lao động nông thôn là 5,9 triệu đồng/tháng.

III.    MỘT SỐ THÁCH THỨC CỦA NỀN KINH TẾ

 
Trong bối cảnh kinh tế thế giới và thương mại toàn cầu suy giảm, bức tranh kinh tế - xã hội Việt Nam quý II và 6 tháng đầu năm 2019 tiếp tục có những nét chuyển biến tích cực là nhờ sự điều hành khẩn trương và quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của các địa phương, cộng đồng doanh nghiệp nhân dân cả nước. Kinh tế 6 tháng đầu năm nay đạt mức tăng trưởng khá, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp. Công nghiệp chế biến, chế tạo và dịch vụ thị trường tiếp tục tăng cao, giữ vai trò là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cung cầu hàng hóa trong nước được bảo đảm, đầu tư trực tiếp nước ngoài và tình hình đăng ký doanh nghiệp tiếp tục là điểm sáng của nền kinh tế. Số người có việc làm tăng lên, cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm giảm dần, thu nhập của người dân cải thiện, an sinh xã hội được quan tâm thực hiện.
 
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, nền kinh tế nước ta vẫn còn không ít khó khăn, hạn chế cũng như tiếp tục đối mặt với những thách thức mới:

- Tăng trưởng kinh tế có dấu hiệu tăng chậm lại. Công nghiệp chế biến, chế tạo mặc dù đạt tốc độ tăng trưởng cao nhưng khó duy trì tốc độ tăng như cùng kỳ năm trước trong những quý tiếp theo.

- Tiến độ giải ngân vốn đầu tư công đạt thấp.

- Kim ngạch xuất khẩu nhiều mặt hàng nông, lâm, thủy sản được xem là thế mạnh có xu hướng giảm đáng kể. Cán cân thương mại hàng hóa chuyển hướng nhập siêu.

- Thời tiết diễn biến phức tạp ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và đời sống của nhân dân. Ngành chăn nuôi gặp khó khăn khi đối diện với dịch tả lợn châu Phi ngày càng lây lan trên diện rộng.

Ngoài ra, với độ mở lớn cùng tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, kinh tế Việt Nam sẽ chịu tác động đan xen nhiều mặt bởi các diễn biến kinh tế quốc tế ngày càng phức tạp, khó lường.
 

Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung đã có ảnh hưởng nhất định đến Việt Nam ở một số lĩnh vực, đầu tư nước ngoài là một ví dụ. Trong 6 tháng đầu năm, có sự thay đổi đột biến thu hút đầu tư từ Trung Quốc và  Hồng Kong, tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn mua cổ phần từ 2 nước và vùng lãnh thổ này là 7,5 tỷ USD (trong đó: Hồng Kong là 5,3 tỷ USD và Trung Quốc là 2,2 tỷ USD).  Trong khi, năm 2017, tổng vốn của cả 2 nước và vùng lãnh thổ này chỉ là 3,7 tỷ USD, năm 2018 là 5,8 tỷ USD. Với sự tăng đột biến này, hiện Việt Nam phải đối mặt với 3 thách thức lớn: Thứ nhất, dòng vốn từ Trung Quốc vào có thể biến Việt Nam thành “cứ điểm” hàng hóa để các doanh nghiệp Trung Quốc nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc vào Việt Nam và sau đó xuất khẩu sang Mỹ và các nước châu Âu, chính vì vậy, việc này có thể khiến Việt Nam vô tình vi phạm các cam kết về xuất xứ hàng hóa. Thứ hai, làn sóng đầu tư từ Trung Quốc vào cũng có thể tạo nên những áp lực đối với doanh nghiệp trong nước. Thứ ba, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung diễn biến phức tạp và khó đoán định, trong thời gian tới, Trung Quốc có khả năng tiếp tục phá giá đồng Nhân dân tệ, nhằm bảo hộ hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc, do vậy Việt Nam cần phải xây dựng kịch bản ứng phó với vấn đề này.
Theo chuyên gia của Tổng cục Thống kê, cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung tạo cả cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam. Về cơ hội: (1) Tạo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài; (2) Tạo cơ hội cho hàng xuất khẩu của Việt Nam sang các nước; (3) Tạo lợi ích quan hệ thương mại hai chiều giữa Việt Nam - Trung Quốc và giữa Việt Nam với các nước khác. Về thách thức: (1) Gây áp lực cạnh tranh thương mại của hàng Việt Nam ngay trên thị trường Việt Nam; (2) Cạnh tranh thương mại với các nước khác; (3) Gian lận thương mại; (4) Cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Việt Nam./.

IV.   GIẢI PHÁP CHO CÁC QUÝ TIẾP THEO NĂM 2019

Năm 2019 được Chính phủ xác định là nămbứt phá” để phấn đấu thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 với phương châm hành động “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt phá, hiệu quả”, vì vậy để thực hiện tốt các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2019, trong thời gian tới, các cấp, các ngành và địa phương cần tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 1/1/2019 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2019; Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 1/1/2019 về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021 và các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, trong đó tập trung vào những nội dung chủ yếu sau đây:

Một là, điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất, tỷ giá linh hoạt, thận trọng, phù hợp với diễn biến thị trường trong nước và quốc tế, phối hợp hài hòa với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, hỗ trợ sản xuất kinh doanh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thực hiện lộ trình điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý vào thời điểm hợp lý để bảo đảm mục tiêu kiểm soát lạm phát năm 2019. Tăng trưởng tín dụng đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh; kiểm soát tín dụng ở một số ngành, lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro và có biện pháp hạn chế tín dụng đen.
 
Hai là, thực hiện các giải pháp kiểm soát dịch bệnh ở gia súc, gia cầm, ổn định sản xuất. Tập trung nguồn lực để ngăn chặn dịch tả lợn châu Phi lan rộng, đồng thời chuẩn bị cung ứng đủ giống phục vụ tái đàn sau dịch bệnh, khuyến khích các cơ sở chăn nuôi lợn chuyển sang các loại vật nuôi khác. Tiếp tục thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng gắn với thị trường, tăng cường sản xuất đối với cây trồng ngắn ngày, đặc biệt là các loại rau quả khi đang có thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu tốt. Khuyến khích liên kết trong sản xuất nông nghiệp, tạo giá trị gia tăng ở các khâu, quản lý tốt chất lượng sản phẩm và tìm kiếm thị trường đầu ra. Ngành thủy sản cần gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ, phân tích và dự báo tốt các tín hiệu của thị trường để có những bước đi phù hợp.

Ba là, nâng cao kết quả hoạt động mở rộng thương mại quốc tế, tận dụng cơ hội từ các hiệp định thương mại thế hệ mới (CPTPP, EVFTA…), đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, tăng cường xúc tiến thương mại, tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa, tránh sự phụ thuộc vào một thị trường nhất định, đặc biệt là xuất khẩu hàng nông sản, thủy sản, cần giải quyết có hiệu quả vấn đề kiểm dịch động thực vật, bảo đảm vệ sinh an toàn chất lượng để thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này. Đối với sản phẩm cá tra, để giữ vững thị phần trên thị trường thế giới cần khuyến cáo người nuôi tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm,đáp ứng tốt các quy định của nhà nhập khẩu, không nên mở rộng diện tích sản xuất. Tăng cường kiểm soát, có biện pháp xử lý đối với các doanh nghiệp nhập hàng hóa từ nước ngoài gắn mác Việt Nam để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.

Bốn là, đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công kế hoạch năm 2019, tháo gỡ khó khăn cho các dự án chậm giải ngân, đặc biệt là các dự án trọng điểm, quy mô lớn, có sức lan tỏa. Cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, cắt giảm thực cht các điều kiện kinh doanh đang là rào cản đối với hot động của doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh cá thể, cải cách thủ tục hành chính,tạo động lực cho doanh nghiệp phát triển, khuyến khích thành lập doanh nghiệp mới, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp khởi nghiệp nhanh và hiệu quả, khuyến khích các hộ cá thể chuyển thành doanh nghiệp, tạo dựng điều kiện kinh doanh thuận lợi cho cơ sở cá thể hoạt động ổn định, lâu dài và tuân thủ pháp luật. Thực hiện các chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo để ươm tạo công nghệ, phát triển ý tưởng, mô hình kinh doanh.

Năm là, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa trong nước đối với hàng nhập khẩu, nâng cao chất lượng sản phẩm để hàng Việt Nam chinh phục người Việt Nam. Chủ động và tích cực chuẩn bc điều kiện vhtầng, nguồn nhân lực, lao động có knăng và năng lực quản ở cả trung ương và đặc biệt ở địa phương. Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, nhất là chủ động tiếp cận các tập đoàn đa quốc gia có tiềm lực về công nghệ, tài chính và thị trường. Đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, nhất là công nghiệp chế biến sâu, chế biến sản phẩm nông nghiệp; công nghiệp phụ trợ, sản xuất hàng tiêu dùng. Chấn chỉnh hoạt động du lịch, khách sạn, nhà hàng nhằm nâng cao chất lượng phục vụ khách du lịch. Tăng cường c tiến, quảng , phát triển mạnh mdu lịch nhằm lan ta ti c ngành sản xuất và dịch vụ phát triển, có chính sách, biện pháp thu hút hiệu quả khách du lịch quốc tế, nhất là khách đến từ các thị trường có mức chi tiêu cao, lưu trú dài ngày tại Việt Nam.

Sáu là, theo dõi chặt chẽ tình hình thời tiết, chủ động phương án phòng chống thiên tai nhằm hạn chế tối đa thiệt hại. Thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, lao động, việc làm. Thực hiện tốt công tác trợ giúp đột xuất, bảo đảm người dân khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời, khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống. Tăng cường công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ./.

 
TỔNG CỤC THỐNG KÊ

Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top