Vì sao GDP được hầu hết các quốc gia lựa chọn làm chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng kinh tế?

08/10/2021 - 02:21 PM

1. Tổng sản phẩm trong nước (GDP)

Tổng sản phẩm trong nước (Gross Domestic Product – GDP) là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp đánh giá kết quả hoạt động sản xuất trong phạm vi lãnh thổ kinh tế của một quốc gia. GDP là chỉ tiêu kinh tế quan trọng, được các nhà quản lý, các nhà kinh tế, nhà đầu tư cũng như các chuyên viên phân tích thị trường theo dõi rất chặt chẽ vì đó là chỉ tiêu phản ánh tổng giá trị của tất cả sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng được tạo ra của một nền kinh tế trong khoảng thời gian cụ thể. GDP được tính theo lãnh thổ kinh tế, biểu thị kết quả sản xuất do các đơn vị thường trú tạo ra trong lãnh thổ kinh tế của một quốc gia, được tính và công bố theo quý, 6 tháng, 9 tháng, năm và phân tổ theo nhiều căn cứ khác nhau.

Nội dung của GDP được xét dưới các góc độ khác nhau, từ đó đưa tới ba phương pháp để tính chỉ tiêu kinh tế tổng hợp này. Cụ thể:

Theo góc độ sử dụng cuối cùng, GDP là tổng cầu của nền kinh tế gồm tiêu dùng cuối cùng của hộ dân cư, tiêu dùng cuối cùng của Nhà nước, tích luỹ tài sản (tài sản cố định, tài sản lưu động và tài sản quý hiếm), chênh lệch xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ.

GDP

=

Tiêu dùng cuối cùng

+

Tích lũy tài sản

+

Chênh lệch xuất nhập khẩu hàng hóa
và dịch vụ

 
Theo góc độ thu nhập, GDP bằng tổng thu nhập tạo nên từ các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất như lao động, vốn, đất đai, máy móc. Theo đó, GDP gồm 4 yếu tố: thu nhập của người lao động từ sản xuất (bằng tiền và hiện vật quy ra tiền), thuế sản xuất (đã giảm trừ phần trợ cấp cho sản xuất), khấu hao tài sản cố định dùng trong sản xuất và thặng dư sản xuất hoặc thu nhập hỗn hợp.
 

GDP

=

thu nhập của người lao động từ sản xuất

+

thuế sản xuất

+

khấu hao tài sản cố định dùng trong sản xuất

+

thặng dư sản xuất hoặc thu nhập hỗn hợp

Theo góc độ sản xuất, GDP là tổng giá trị tăng thêm theo giá cơ bản của các ngành kinh tế và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm:

GDP

=

Tổng giá trị tăng thêm theo giá cơ bản
của tất cả các ngành

+

Thuế sản phẩm

-

Trợ cấp sản phẩm

Với nội hàm của chỉ tiêu GDP, các nhà hoạch định chính sách và ngân hàng nhà nước có thể đánh giá thực trạng nền kinh tế đang dư thừa hay thiếu hụt, liệu có cần thúc đẩy hay kiềm chế, có các mối đe dọa như suy thoái hoặc lạm phát tràn lan không, từ đó kịp thời thực hiện các biện pháp cần thiết cho nền kinh tế quốc dân. Các nhà đầu tư chú ý đến GDP vì một tỷ lệ phần trăm thay đổi đáng kể trong GDP - tăng hoặc giảm - có thể có tác động đáng kể đến thị trường nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Ngoài ra, có thể dựa vào diễn biến của GDP để phân tích tác động của các biến số như chính sách tiền tệ và tài khóa, thuế, chi tiêu của chính phủ, các cú sốc kinh tế,... đến nền kinh tế làm cơ sở đưa ra các quyết định quản lý hiệu quả.

Tóm lại, tầm quan trọng của chỉ tiêu GDP là không thể phủ nhận. Samuelson và Nordhaus (1948) đã dùng hình ảnh ví khả năng của GDP trong việc cung cấp một bức tranh tổng thể về tình trạng của nền kinh tế như là khả năng của một vệ tinh trong không gian có thể khảo sát thời tiết trên toàn bộ lục địa.

2. Tổng thu nhập quốc gia (GNI)

Tiếp cận theo hướng thu nhập thực tế, chỉ tiêu tổng thu nhập quốc gia (Gross National Income - GNI) phản ánh kết quả thu nhập lần đầu được tạo ra từ các yếu tố sở hữu của một quốc gia tham gia vào hoạt động sản xuất trên lãnh thổ quốc gia đó hay ở nước ngoài trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Nói cách khác, GNI là tổng thu nhập người lao động và chủ thế kinh tế NDH1 [1] của quốc gia đó nhận được bất kể họ ở trong nước hay nước ngoài trừ đi phần thu nhập người lao động và thương nhân nước ngoài hoạt động tại quốc gia đó. Chỉ tiêu này được sử dụng bổ sung cho GDP để đo lường và theo dõi sự giàu có của một nền kinh tế, một quốc gia theo thời gian.

Tổng thu nhập quốc gia là chỉ tiêu cân đối của tài khoản phân phối thu nhập lần đầu. Do vậy, để tính chỉ tiêu này cần phải lập các tài khoản sản xuất và tài khoản hình thành thu nhập hoặc phải xuất phát từ chỉ tiêu GDP và các chỉ tiêu có liên quan. Công thức tính như sau:

GNI

=

GDP

-

Thuế (trừ trợ cấp) sản xuất và nhập khẩu của đơn vị không thường trú [2]

+

Chênh lệch giữa thu nhập của người lao động Việt Nam ở nước ngoài gửi về và thu nhập của người nước ngoài ở Việt Nam gửi ra

+

Chênh lệch giữa thu nhập sở hữu nhận được từ nước ngoài với thu nhập sở hữu trả cho nước ngoài NDH3 [3]

Đối với nhiều quốc gia, chỉ có sự khác biệt nhỏ giữa GDP và GNI, nghĩa là thu nhập sở hữu thuần không đáng kể, không có hoặc có ít sự chênh lệch giữa thu nhập người lao động nhận được và các khoản thanh toán của quốc gia đó cho nước ngoài. Ngược lại, GNI có xu hướng cao hơn GDP khi quốc gia nhận được nhiều thu nhập sở hữu từ đầu tư và thu nhập người lao động làm việc ở nước ngoài. Trong trường hợp nước ngoài có quyền kiểm soát lớn đối với sản lượng quốc gia và thu nhập sở hữu nhận được không đáng kể, GNI sẽ thấp hơn GDP.

Như vậy, điểm mạnh của GNI là thước đo kinh tế ghi nhận tất cả khoản thuần thu nhập đi vào nền kinh tế quốc dân, không tính đến phạm vi lãnh thổ kinh tế của thu nhập đó. Nói cách khác, đó là thuần thu nhập thực tế từ sản xuất và sở hữu tài sản của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là 1 năm). Do đó, đây cũng là một chỉ tiêu hữu ích hỗ trợ các nhà nghiên cứu, hoạch định xây dựng được bức tranh toàn cảnh hơn về hoạt động kinh tế.

3. Vai trò của GDP và GNI trong đánh giá tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia
 
Hai chỉ tiêu kinh tế tổng hợp là Tổng sản phẩm trong nước (GDP) và Tổng thu nhập quốc gia (GNI) đều có vai trò quan trọng trong đánh giá hoạt động của một nền kinh tế hay một quốc gia. Tuy nhiên, nội hàm và cách tiếp cận của GDP và GNI không giống nhau, dẫn đến vai trò của từng chỉ tiêu trong đánh giá tăng trưởng kinh tế cũng khác nhau. Bảng 1 nêu rõ sự khác biệt cơ bản giữa hai chỉ tiêu này.
 
Bảng 1. So sánh giữa Tổng sản phẩm trong nước và Tổng thu nhập quốc gia

 

Chỉ tiêu
Đặc điểm

Tổng sản phẩm trong nước (GDP)

Tổng thu nhập quốc gia
(GNI)

Cách tiếp cận

Giá trị tăng thêm từ sản xuất trong nước

Thu nhập từ sản xuất và sở hữu tài sản

Nội dung phản ánh

Kết quả hoạt động sản xuất

Kết quả phân phối thu nhập lần đầu

Phạm vi tính

Trong lãnh thổ kinh tế,
không quan tâm quyền sở hữu

Trong và ngoài lãnh thổ kinh tế,
thuộc quyền sở hữu của quốc gia

Công thức tính

03 phương pháp theo các cách tiếp cận sản xuất, phân phối thu nhập và sử dụng cuối cùng

GDP + chênh lệch thu chi thu nhập sở hữu và thu nhập người lao động với nước ngoài

Kỳ đánh giá

3 tháng, 6 tháng,                       9 tháng, 12 tháng

12 tháng

Phân tổ

Theo ngành kinh tế, loại hình kinh tế, mục đích sử dụng, tỉnh/thành phố

Theo khu vực thể chế (hiện nay Việt Nam chưa thực hiện)

Tác dụng

Phản ánh quy mô nền kinh tế, sức mạnh kinh tế của quốc gia

Phản ánh sự giàu có, tiềm lực kinh tế của công dân quốc gia

 

Như vậy, GDP và GNI là hai thước đo hoạt động kinh tế với đối tượng đo lường không giống nhau. Nếu như GDP đánh giá khả năng sản xuất của một nền kinh tế hay tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong lãnh thổ kinh tế của quốc gia, đo lường quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thì GNI là thu nhập thực tế do người lao động và các chủ thể kinh tế thuộc sở hữu quốc gia tạo ra và nhận được, không phân biệt vị trí của họ là ở trong hay ngoài nước. Từ đó, vai trò của từng chỉ tiêu trong đánh giá tăng trưởng kinh tế cũng khác nhau. GDP giúp chúng ta thấy được quy mô, sức khỏe nền kinh tế của một quốc gia trong khi GNI thể hiện tiềm lực kinh tế của quốc gia đó.

4. Vấn đề lựa chọn chỉ tiêu GDP để đánh giá tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về quy mô sản xuất mà một nền kinh tế tạo ra theo thời gian. Trên cơ sở đó, các nhà nghiên cứu có thể đưa ra được định hướng, chính sách phát triển trong giai đoạn kế tiếp. Như phân tích ở trên, do GDP là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, được sử dụng như một chỉ báo về sức khỏe chung của nền kinh tế, chỉ tiêu này được hầu hết quốc gia trên thế giới sử dụng trong đánh giá tăng trưởng kinh tế. Sở dĩ như vậy là do:

Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế dựa vào chỉ tiêu GDP giúp các doanh nghiệp, các nhà đầu tư và phân tích thị trường đưa ra quyết định phù hợp với thực trạng nền kinh tế. GDP tăng là dấu hiệu cho thấy nền kinh tế đang hoạt động tốt, các doanh nghiệp tự tin đầu tư nhiều hơn. Đây là nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Ngược lại, khi tăng trưởng GDP rất thấp hoặc nền kinh tế đi vào suy thoái, điều ngược lại sẽ xảy ra: người lao động có thể bị thôi việc, trả lương thấp hơn và các doanh nghiệp không có ý định muốn đầu tư mở rộng thêm.

Thứ hai, việc sử dụng GDP trong đo lường tăng trưởng kinh tế rất hữu ích cho các ngân hàng trung ương khi xác định các chỉ tiêu nợ công, nợ chính phủ, bội chi ngân sách... so với GDP, từ đó có những điều chỉnh phù hợp chính sách tài khóa và tiền tệ. Đó còn là cơ sở để tính các chỉ tiêu cân đối khác trong nền kinh tế như tổng tích lũy tài sản trong GDP, tiêu dùng cuối cùng trong GDP, tổng vốn đầu tư xã hội so với GDP, tỷ lệ xuất nhập khẩu so với GDP,... Nhờ việc tiếp cận từ hoạt động sản xuất và đo lường kết quả sản xuất của nền kinh tế, GDP được sử dụng trong tính toán các cân đối lớn của nền kinh tế, phản ánh rõ ràng đặc điểm, tính chất tăng trưởng của một quốc gia.

Thứ ba, cách tính và tiếp cận GDP cho phép họ đánh giá cơ cấu cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và nhóm ngành kinh tế. GDP được tính và phân tổ theo ngành kinh tế, theo khu vực kinh tế và theo tỉnh/thành phố (GRDP) trong khi GNI do tính thêm phần thu nhập sở hữu thuần, không thể thực hiện phân tổ theo ngành kinh tế và theo tỉnh, thành phố mà chỉ phân tổ theo khu vực thể chế. Để trở thành cơ sở lập kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế quốc gia, chỉ tiêu GDP giúp phản ánh rõ ràng hơn thực trạng sản xuất của nền kinh tế, của từng ngành kinh tế, từ đó các Chính phủ sẽ có định hướng tập trung phát triển khu vực kinh tế, vùng kinh tế quan tâm. Hơn nữa, do chỉ phụ thuộc vào các hoạt động sản xuất trong lãnh thổ kinh tế của quốc gia, các Chính phủ dễ dàng và thuận lợi hơn trong thu thập dữ liệu công bố chỉ tiêu GDP theo một số kỳ nhất định trong năm. Trong khi đó, để xác định được GNI cần phải thu thập số liệu của thương nhân và người lao động ở nước ngoài cũng như bóc tách thu nhập của thương nhân và người lao động nước ngoài làm việc tại quốc gia – việc làm đòi hỏi nhiều thời gian và công sức.

Như vậy, tuy còn một số hạn chế nhất định trong nội dung phản ánh, GDP vẫn là chỉ tiêu quan trọng mà các Chính phủ lựa chọn để đánh giá và so sánh tăng trưởng của các quốc gia trên thế giới. Từ đó, các quốc gia sẽ có các chính sách phát triển kinh tế phù hợp, các doanh nghiệp cũng có cơ sở để ra quyết định đầu tư, mở rộng hoặc thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh.

TS. Nguyễn Minh Thu
Khoa Thống kê, Đại học Kinh tế quốc dân

 

__________________________________

[1] Thu nhập tạo ra trong nền kinh tế ko chỉ có khối dn mà còn cả các đơn vị sự nghiệp, hộ cá thể, htx, cqhc… gọi chung là chủ thể kinh tế

[2] Đơn vị không thường trú là đơn vị không có trụ sở, không có địa điểm sản xuất hoặc nhà cửa trong lãnh thổ kinh tế của quốc gia, không tiến hành các hoạt động sản xuất và giao dịch kinh tế với thời gian lâu dài (thường trên một năm).

[3] Công thức theo SNA 2008 (2.143). Công thức trên theo Sách của VN bị thiếu phần Thuế


Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top