Xuất khẩu năm 2019: Cơ hội lớn từ các hiệp định thương mại

03/06/2019 - 09:45 AM
Xuất khẩu ngày càng gia tăng chiều sâu giá trị
 
Trong những năm gần đây, xuất khẩu của Việt Nam liên tiếp đạt nhiều kết quả ấn tượng với tốc độ tăng trưởng cao. Đặc biệt, năm 2018, số liệu của Tổng cục Thống kê (TCTK) cho thấy, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đã đạt mức kỷ lục 482,2 tỷ USD, tăng 12,64% so với năm 2017. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 244,7 tỷ USD, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm 2017, hoàn thành vượt mức chỉ tiêu do Quốc hội và Chính phủ đặt ra.

 
Xuất khẩu năm 2019: Cơ hội lớn từ các hiệp định thương mại

Ảnh minh họa, nguồn Internet
 
cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo chiều hướng tích cực, giảm hàm lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản phẩm công nghiệp, phù hợp với lộ trình thực hiện Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020, định hướng đến năm 2030, tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Năm 2018, nhóm hàng công nghiệp chế biến chiếm hơn 82,8% tổng kim ngạch xuất khẩu, với kim ngạch đạt 202,67 tỷ USD, tăng 16,2%, ghi dấu năm thứ 7 liên tiếp đạt mức tăng trưởng cao hơn tăng trưởng xuất khẩu chung.
 
Quy các mặt hàng xuất khẩu tiếp tục được mở rộng. Theo số liệu của TCTK, số mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên đã tăng qua các năm chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm 2011 21 mặt hàng kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 81% tổng kim ngạch xuất khẩu; năm 2015 tăng lên là 23 mặt hàng với tỷ trọng chiếm khoảng 87%; năm 2016 đã tăng lên 25 mặt hàng với tỷ trọng chiếm 88,7% đến năm 2018 là 29 mặt hàng, chiếm 91,67% tổng kim ngạch xuất khẩu (trong đó có 9 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD 5 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD).
 
Thị trường xuất khẩu được mở rộng, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã vươn tới hầu hết các thị trường trên thế giới, nhiều sản phẩm đã dần có chỗ đứng vững chắc và nâng cao được khả năng cạnh tranh trên nhiều thị trường có yêu cầu cao về chất lượng như EU, Nhật Bản, Mỹ, Úc... Năm 2018, Việt Nam đã có 30 thị trường xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD (tăng thêm 1 thị trường so với năm 2017), trong đó có 4 thị trường xuất khẩu đạt kim ngạch trên 10 tỷ USD.
 
Thị trường xuất khẩu, nhập khẩu được mở rộng, không chỉ tăng cường ở các thị trường truyền thống mà còn khai thác được các thị trường mới, tiềm năng. Đánh giá chung cho thấy, tất cả các thị trường có FTA của Việt Nam đều ghi nhận tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao so với thời điểm trước khi có FTA. Năm 2018, kim ngạch xuất khẩu sang các khu vực thị trường đều đạt mức tăng trưởng dương, đặc biệt tăng cao so với cùng kỳ năm trước tại những thị trường có FTA với Việt Nam như ASEAN (tăng 13,7%), Trung Quốc (18,5%), Hàn Quốc (23,2%), Nhật Bản (12,9%), EU (11%). Đặc biệt là Việt Nam đã xuất siêu chủ yếu vào thị trường các nước phát triển, có yêu cầu khắt khe đối với hàng hóa nhập khẩu như Hoa Kỳ (năm 2017 xuất siêu 32,24 tỷ USD, năm 2018 xuất siêu 34,7 tỷ USD); EU (năm 2017 xuất siêu 26,14 tỷ USD, năm 2018 tăng lên 28,7 tỷ USD).

Đáng chú ý, xuất khẩu của khối doanh nghiệp trong nước tiếp tục tăng trưởng tốt. Nếu như những năm trước đây, xuất khẩu của khối doanh nghiệp FDI luôn đạt mức tăng trưởng cao hơn so với khối doanh nghiệp trong nước thì thời gian gần đây, tốc độ tăng trưởng của khối trong nước đã cao hơn khối FDI, đặc biệt có giai đoạn đã vượt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung của toàn bộ nền kinh tế. Năm 2018, khối doanh nghiệp trong nước xuất khẩu khoảng 69,2 tỷ USD, tăng 15,9%, cao hơn mức tăng trưởng xuất khẩu chung và cao hơn mức tăng trưởng của khối doanh nghiệp FDI (kể cả dầu thô) là 12,9%. Kết quả này có được một phần do doanh nghiệp đã nỗ lực vươn lên, sáng tạo… Đây là yếu tố tác động tới kim ngạch xuất khẩu, tạo cơ hội tăng trưởng mạnh hơn trong thời gian tới.
 
Cùng với việc thúc đẩy xuất khẩu, trong những năm gần đây, Việt Nam đã làm tốt khâu kiểm soát nhập khẩu. Theo đó, nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu đã tăng trưởng chậm lại và nhập khẩu các mặt hàng cần thiết cho sản xuất, tiêu dùng trong nước cũng như các mặt hàng nhập khẩu phục vụ gia công, xuất khẩu đều tăng. Nhập khẩu của nhóm hàng hóa phục vụ sản xuất để xuất khẩu và hàng hóa thiết yếu luôn chiếm gần 90%; nhập khẩu của nhóm hàng không khuyến khích nhập khẩu chỉ chiếm dưới 7%.
 
Với việc thúc đẩy xuất khẩu gắn với tái cấu trúc sản xuất trong nước và kiểm soát tốt khâu nhập khẩu như nêu trên, cán cân thương mại năm 2018 đã duy trì xuất siêu với mức thặng dư kỷ lục, đạt khoảng 7,2 tỷ USD, cao nhất từ trước đến nay. Con số xuất siêu của Việt Nam trong năm 2018 đã gấp hơn 3 lần so với cùng kỳ năm ngoái, góp phần làm tích cực cán cân thanh toán và ổn định các chỉ số kinh tế vĩ mô khác của nền kinh tế.
 
Triển vọng năm 2019: Tận dụng cơ hội từ các hiệp định thương mại


Năm 2019, Bộ Công Thương dự báo kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 265 tỷ USD, tăng từ 8-10% so với năm 2018; kim ngạch nhập khẩu đạt khoảng 268 tỷ USD, tăng 11,7%; nhập siêu ước đạt 3 tỷ USD; tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu tiếp tục duy trì ở mức dưới 2%.
 
Theo nhận định của Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2019 tiếp tục có nhiều thuận lợi do môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện mạnh mẽ. Những tiến bộ trong cải cách hành chính, đơn giản hóa thủ tục đầu tư, những đổi mới hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đổi mới, sáng tạo sẽ thúc đẩy sản xuất, tạo thêm nguồn hàng cho xuất khẩu.
 
Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã tham gia 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó, 10 FTA đã ký kết và có hiệu lực. Việc Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) chính thức có hiệu lực từ đầu năm 2019 và Hiệp định FTA Việt Nam - EU (EVFTA) dự kiến sẽ được ký kết trong năm nay đã và đang tạo ra sức hút mới cho đầu tư trực tiếp nước ngoài, giúp Việt Nam có thêm năng lực sản xuất mới, góp phần gia tăng hiệu ứng tích cực của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đối với nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.
 
Theo báo cáo sơ bộ đánh giá định lượng về lợi ích và cơ hội của CPTPP đối với Việt Nam của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, do tác động cắt giảm thuế quan của CPTPP, Việt Nam sẽ đạt được lợi ích từ xuất khẩu với tổng mức tăng thêm xuất khẩu là trên 4% (tương đương 4,09 tỷ USD). Tốc độ tăng xuất khẩu sang các nước trong CPTPP sẽ tăng thêm ở mức 14,3% (giả định lũy tiến đến năm 2035), tương đương với 2,61 tỷ USD. CPTPP   sẽ mở thêm nhiều cơ hội và điều kiện thuận lợi, góp phần vào việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa sang các nước ở cả 3 châu lục: châu Á, châu Mỹ và châu Đại Dương, trong đó có những thị trường lớn như: Nhật Bản, Australia, Canada. Đồng thời, CPTPP có hiệu lực cũng sẽ góp phần mở ra cánh cửa xuất khẩu cho nhiều mặt hàng của Việt Nam như: Dệt may, da giày, đồ gỗ, thủy sản… sang các thị trường mới như Canada, Mexico, Peru.
 
Đối với EVFTA, bài toán gia tăng xuất khẩu cũng khá khả thi. Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy, EVFTA sẽ giúp xuất khẩu của Việt Nam tăng thêm bình quân từ 4% - 6%/năm trong vòng 10 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Nếu EVFTA có hiệu lực vào năm 2019, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU sẽ tăng thêm được 16 tỷ USD ngay trong 1-2 năm đầu tiên so với trường hợp không có FTA.
 
Có thể nói, việc tham gia các FTA như CPTPP và EVFTA sẽ thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang các thị trường lớn như EU, Nhật Bản, Australia, Canada, Mexico..., đặc biệt là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực như thủy sản, rau quả tươi và chế biến, hàng điện tử và linh kiện điện tử, một số mặt hàng dệt may và da giày… Theo Hiệp hội Da - Giày - Túi xách Việt Nam (LEFASO) cho biết, năm 2019, ngành da giày, túi xách đặt mục tiêu đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 21,5 tỷ USD, tăng thêm 2 tỷ USD so với kết quả thực hiện của năm 2018. Với việc hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, cơ hội thị trường với ngành giày dép, túi xách Việt Nam sẽ có nhiều triển vọng hơn do tăng nhu cầu tiêu dùng tại các thị trường xuất khẩu chính yếu như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, đặc biệt là Trung Quốc. Các doanh nghiệp da giày, túi xách có nhiều điều kiện hơn để tận dụng cơ hội gia tăng xuất khẩu, đặc biệt với một số thị trường mà giày dép còn chưa vào được nhiều như Canada, Mexico, Australia... trong khối CPTPP.
 
Ngành dệt may năm 2019 cũng sẽ quyết tâm để tận dụng các cơ hội đến từ CPTPP và EVFTA. Trong điều kiện có cả Hiệp định CPTPP và EVFTA, mục tiêu cao của ngành dệt may Việt Nam năm 2019 là xuất khẩu 40 tỷ USD, tăng 4 tỷ USD so với năm 2018. Trong điều kiện chưa có EVFTA hoặc Hiệp định triển khai chậm, mục tiêu xuất khẩu của ngành dự kiến đạt kim ngạch từ 38-38,5 tỷ USD, theo hướng sản xuất xanh, năng suất tốt, cải thiện điều kiện làm việc, tăng giá trị gia tăng và tăng gấp đôi kim ngạch.
 
Bên cạnh đó, khi tham gia các FTA, Việt Nam sẽ đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tránh phụ thuộc quá nhiều vào một số ít thị trường nhất định, từ đó có cơ hội cơ cấu lại thị trường xuất nhập khẩu theo hướng cân bằng hơn, giúp nâng cao tính độc lập tự chủ của nền kinh tế, trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới đang có nhiều thay đổi theo chiều hướng phức tạp và khó đoán định.
 
Ngoài ra, các FTA cũng sẽ giúp Việt Nam có được các cơ hội từ chuỗi cung ứng mới hình thành sau khi các Hiệp định có hiệu lực. Đây là điều kiện quan trọng để nâng cao trình độ phát triển của doanh nghiệp, tăng năng suất lao động, giảm dần tỷ lệ các công đoạn gia công lắp ráp, chuyển dần lên các công đoạn sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn, từ đó bước sang giai đoạn phát triển các ngành điện tử, công nghệ cao...
 
Tuy nhiên, để tận dụng tối đa lợi thế của các FTA, hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu trong bối cảnh chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, các chuyên gia kinh tế cho rằng, Chính phủ cần tiếp tục thực hiện các chính sách bình ổn kinh tế vĩ mô một cách kịp thời, linh hoạt, hợp lý và củng cố, ổn định hệ thống và thị trường tài chính trong bối cảnh nước ta hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Theo đó, Việt Nam cần phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm xuất khẩu nhằm giải quyết vấn đề nhập siêu và bình ổn cán cân thanh toán; vận dụng các biện pháp phi thuế như các hàng rào kỹ thuật, các biện pháp phòng vệ thương mại được phép áp dụng trong WTO và các FTA để hỗ trợ các ngành trong nước cần bảo hộ trước cạnh tranh để phát triển và xuất khẩu.
 
Về phía các doanh nghiệp xuất khẩu, để tận dụng lợi ích và lợi thế các FTA  mà Việt Nam tham gia,   các doanh nghiệp cần chủ động nâng cao tính cạnh tranh năng suất thông qua mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư công nghệ nhằm nâng cao chất lượng hàng hoá và giảm giá thành sản phẩm. Cụ thể, để   mở rộng quy mô sản xuất, doanh nghiệp cần huy động sự đầu tư về vốn, nhân lực, công nghệ. Đặc biệt, đầu tư phát triển công nghệ sẽ là một trong những chìa khóa quan trọng giúp doanh nghiệp tăng năng suất và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường./.

 
ThS. Nguyễn Việt Bình
Đại học Thương mại

Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top