Một số nhân tố ảnh hưởng đến chia sẻ chi phí giáo dục đại học ở Việt Nam

17/06/2020 - 11:07 AM
Trong những năm gần đây, nhu cầu gia tăng nhanh chóng về giáo dục đại học GDĐH đã tạo ra áp lực không nhỏ lên ngân sách Chính phủ của các nước. Để giải quyết vấn đề này, chia sẻ chi phí giáo dục đại học được coi là giải pháp phù hợp ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Bài viết phân tích một số nhân tố ảnh hưởng đến chia sẻ chi phí giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay, đó là: (1) Xu thế phát triển của giáo dục đại học trên thế giới; (2) Cơ chế tài chính cho giáo dục đại học; (3) Đặc điểm của trường đại học; (4) Đặc điểm của người học và gia đình.
 
Chia sẻ chi phí giáo dục đại học

Giáo dục đại học (GDĐH) là bậc học cao nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân, có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển nguồn lực con người, đào tạo và cung cấp lực lượng lao động chủ yếu trong tương lai, là tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế và phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Phát triển GDĐH chính là phát triển chất lượng nguồn nhân lực, làm tăng năng suất lao động của xã hội, đồng thời cũng làm tăng thu nhập cho bản thân người lao động được đào tạo. Vì vậy, GDĐH còn được coi như một thị trường hàng hóa, dịch vụ đặc biệt và học phí là “giá cả” có tác động đến lợi ích của nhà trường. Đây chính là lí do cốt lõi khiến nhà nước, các doanh nghiệp, các cơ sở đào tạo, gia đình và người học ngày càng sẵn sàng đầu tư nguồn lực nhiều hơn cho GDĐH.

Đầu thế kỷ 21 đánh dấu gia tăng đột biến về nhu cầu GDĐH, xuất hiện đầu tiên ở các nước Tây Âu, sau đó lan tỏa dần sang các nước Châu Á và Mỹ La tinh, đã tạo ra sự dịch chuyển của GDĐH từ mô hình đào tạo “tinh hoa” dành cho số ít sang mô hình đào tạo “đại chúng” dành cho số đông (Johnstone, 2004). Điều này đã tạo áp lực rất lớn lên ngân sách nhà nước (NSNN) trong việc cung cấp nguồn tài chính cho GDĐH. Do vậy, việc thực hiện chính sách chia sẻ chi phí GDĐH được xem là cần thiết và phù hợp ở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, giáo dục - đào tạo nói chung và GDĐH nói riêng luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, xác định là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Điều này được thể hiện khá rõ trong các văn kiện, các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước, trong nhiều bài tham luận, bài báo khoa học và ở một số đề tài nghiên cứu các cấp. Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nhận định: “tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo”, GDĐH cần đổi mới mạnh mẽ “theo hướng hiện đại, phù hợp với từng ngành, nhóm ngành và việc phân tầng của hệ thống GDĐH”, “từng bước tiếp cận trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến thế giới”. Xu hướng này không chỉ thể hiện ở qui mô NSNN cấp cho GDĐH tăng lên hàng năm, mà còn thể hiện trong xu hướng tăng qui mô và tỷ trọng chi tiêu cho GDĐH trong tổng thu nhập hàng năm của các hộ gia đình.

Chia sẻ chi phí giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ chi phí đào tạo đại học được hiểu là tỷ lệ phần trăm (%) đóng góp giữa các bên liên quan, gồm chính phủ, thông qua NSNN hay người đóng thuế; Phụ huynh và/ hoặc sinh viên, thông qua học phí, lệ phí; Nhà trường, thông qua các khoản thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, thu từ dịch vụ khoa học công nghệ, và các khoản cho biếu tặng.

Chia sẻ chi phí đào tạo của các trường đại học công lập ở Việt Nam chủ yếu dựa trên ba nguồn chính, đó là: Ngân sách Nhà nước; (2) Đầu tư người học và gia đình, thông qua học phí, lệ phí; (3) Nguồn tự huy động, tự tạo của cơ sở GDĐH công lập, thông qua nguồn thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; thông qua tài trợ, cho tặng của các tổ chức, cá nhân hảo tâm bằng tiền mặt hoặc hiện vật. Bảng số liệu sau thể hiện chia sẻ chi phí GDĐH trong chi phí bình quân một sinh viên ở Việt Nam từ năm 2010 đến năm 2017. 
 
Bảng 1. Chia sẻ chi phí GDĐH trong chi phí bình quân một sinh viên ở Việt Nam
giai đoạn 2010-2017


                                                                                           Đơn vị tính: %

Năm Nhà nước Người học Các nguồn thu khác
2010 42,28 43,57 14,15
2013 40,89 45,80 13,31
2017 36,87 53,82 9,31
 
                                                                                                                                                                                                        
Nguồn: Bộ GD&ĐT và tính toán của tác giả
 
Số liệu trên cho thấy, nhìn chung, ở đa số các trường đại học công lập tại Việt Nam, tỷ trọng đầu tư từ NSNN giảm dần, từ 42,28% năm 2010 giảm xuống 36,87% năm 2017. Tỷ trọng đầu tư của người học trong chi phí bình quân một sinh viên tăng dần lên, từ 43,57% năm 2010, tăng lên 45,8% năm 2013, và đạt 53,82% năm 2017. Tuy vậy, các khoản thu từ nguồn tự huy động, tự tạo thông qua hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, hay thông qua tài trợ, cho tặng của các tổ chức, cá nhân hảo tâm, doanh nghiệp, hay các tổ chức xã hội trong đầu tư bình quân một sinh viên chiếm tỷ lệ nhỏ (tính bình quân các trường là 9,31%).

Một trong những cải cách GDĐH ở Việt Nam được đánh giá cao gần đây là chính sách tự chủ tài chính của các trường đại học công lập theo Nghị quyết 77/NQ-CP của Chính phủ. Hiện nay, Việt Nam đang áp dụng hai cơ chế tự chủ tài chính là tự chủ toàn bộ và tự chủ một phần. Với cơ chế tự chủ toàn bộ, trường đại học cân đối chi phí hoạt động thường xuyên, tuy nhiên vẫn được nhận nguồn vốn đầu tư cơ sở vật chất từ NSNN (nếu có). Với cơ chế tự chủ một phần, trường đại học tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên, nhà nước tiếp tục đảm bảo một phần. Đi kèm với các cơ chế tự chủ này, trường đại học có quyền ban hành một số định mức chi tiêu khác với quy định của nhà nước đối với các đơn vị không tự chủ. Đây được coi là một bước tiến trong việc thực hiện tự chủ về tài chính, và thực hiện chia sẻ chi phí đào tạo, góp phần giảm bớt gánh nặng chi tiêu ngân sách cho Nhà nước.

Một số nhân tố ảnh hưởng đến chia sẻ chi phí GDĐH ở Việt Nam

Nhóm nhân tố xu thế phát triển GDĐH trên thế giới

GDĐH toàn cầu đang phát triển trong bối cảnh sự gia tăng về quy mô và nhu cầu tham gia vào hệ thống GDĐH ngày càng tăng lên của các cá nhân trong xã hội. GDĐH ngày nay không còn là thứ dịch vụ xa xỉ, chỉ dành cho số ít những người trong xã hội, mà GDĐH đang dần trở nên “đại chúng” hơn. Chính vì vậy, chi phí cho GDĐH không thể chỉ trông cậy vào NSNN mà cần có sự chia sẻ của các bên liên quan trong chi phí GDĐH. Hơn thế nữa, GDĐH còn được coi là một lĩnh vực đầu tư (đầu tư vốn nhân lực). Đầu tư cho GDĐH đã được chứng minh trong nhiều công trình nghiên cứu ở các quốc gia này như một lĩnh vực đầu tư “siêu lợi nhuận”, và là giải pháp “đi tắt đón đầu”, thu hẹp khoảng cách giữa các nước đang phát triển với các nước phát triển. Đây chính là lí do khiến nhà nước, doanh nghiệp, cơ sở GDĐH, gia đình và người học ngày càng sẵn sàng đầu tư nguồn lực nhiều hơn cho GDĐH (Đặng Thị Minh Hiền, 2016).

Hơn thế nữa, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực, trong đó có giáo dục đào tạo, yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần phải nâng cao chất lượng GDĐH, từng bước đạt “chuẩn” của khu vực và thế giới, đồng thời “tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo” và “tạo ra một nền GDDH chất lượng tốt theo hướng phát triển năng lực người học”. Điều này đặt ra áp lực rất lớn về tài chính cho GDĐH, trong khi NSNN lại có hạn. Thực tế cho thấy, NSNN dành cho GDĐH gần như không tăng lên, thậm chí còn giảm đi tương đối so với các cấp học khác (với mục tiêu chính là ưu tiên cho giáo dục phổ cập). Do đó, việc chuyển một phần gánh nặng chi phí GDĐH từ ngân sách sang phía người học là điều không thể tránh khỏi (thông qua tăng học phí) để đảm bảo vừa đáp ứng được nhu cầu đào tạo, vừa đảm bảo duy trì và nâng cao chất lượng GDĐH (Johnstone, 2004). Hơn thế nữa, Nhà nước cũng đã có những chính sách đổi mới tài chính theo hướng ban hành và tạo điều kiện cho các trường đại học công lập tăng cường tính tự chủ, tự huy động các nguồn lực ngoài NSNN với các phương thức khác nhau, nhằm khai thác, huy động tối đa nguồn lực cho phù hợp với định hướng, nhu cầu phát triển của các cơ sở GDĐH để giải quyết vấn đề tài chính cho các trường đại học. Trong bối cảnh đó, chia sẻ chi phí GDĐH được coi là phù hợp với xu thế phát triển GDĐH trên thế giới, và là điều kiện cần để nâng cao chất lượng GDĐH. Đây là nhận định chung của nhiều nhà khoa học cũng như cơ quan quản lý GDĐH.

Nhóm nhân tố cơ chế tài chính

Đổi mới cơ chế tài chính, tăng cường chia sẻ chi phí, đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho GDĐH, đổi mới cơ chế tự chủ tài chính, đổi mới cách thức phân bổ nguồn vốn, đổi mới chính sách học phí, chính sách hỗ trợ tài chính cho sinh viên… là những yêu cầu cấp thiết đặt ra trước những “sức ép” về cầu đối với dịch vụ GDĐH. Do vây, đổi mới cơ chế tài chính nhằm tạo tính chủ động cho các trường đại học công lập, đồng thời làm giảm áp lực đối với NSNN và tăng tính trách nhiệm của cộng đồng đối với mục tiêu giáo dục đào tạo. Đây cũng chính là điều kiện để thực hiện chia sẻ chi phí GDĐH, cho phép đảm bảo và nâng cao chất lượng GDĐH.
Bên cạnh đó, đổi mới cơ chế tài chính theo hướng tăng cường tự chủ cho các trường đại học còn tạo điều kiện cho các trường ĐH có quyền tự chủ ngày càng cao trong việc sử dụng nguồn NSNN, tự chủ trong việc khai thác và sử dụng các nguồn thu, phát huy tiềm năng về cơ sở vật chất, tài sản hiện có, đội ngũ giảng viên... Những hoạt động đó đã góp phần không nhỏ trong việc tăng nguồn tài chính cho nhà trường, để mở rộng quy mô đào tạo, đa dạng hóa các loại hình đào tạo đáp ứng nhu cầu nhân lực cho xã hội.

Nhóm nhân tố đặc điểm nhà trường

Theo trường phái Kinh tế tự do mới, việc thu phí dịch vụ đối với người học/ phụ huynh sẽ giúp thúc đẩy tính cạnh tranh và hiệu quả. Cụ thể về phía cơ sở GDĐH, người ta thấy rằng ở những trường ĐH truyền thống (miễn phí), dường như chính phủ đã trao cho họ sự độc quyền và họ có rất ít động lực để đổi mới và đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của người học/phụ huynh cũng như nhu cầu của xã hội/ hay nền kinh tế. Nhưng khi người học cùng tham gia chia sẻ chi phí thì các cơ sở GDĐH, bất kể công hay tư, phải cạnh tranh để thu hút sinh viên và phải trả giá cho việc đào tạo kém hiệu quả hay khả năng đáp ứng kém những nhu cầu, nguyện vọng của người học/phụ huynh cũng như của xã hội. Do đó, họ có mục tiêu và động lực rõ ràng cho việc đổi mới, nâng cao chất lượng dịch vụ, cung cấp, thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của “khách hàng” chứ không chỉ hoạt động theo cách nhằm tạo thuận lợi cho nhà trường hay nhằm mang lại lợi ích cho chính phủ như hệ thống ĐH miễn phí truyền thống. Rõ ràng là uy tín, thương hiệu của nhà trường chính là động lực thúc đẩy chia sẻ chi phí GDĐH; và ngược lại chia sẻ chi phí cũng có thể được coi là điều kiện cần để các cơ sở GDĐH nâng cao chất lượng đào tạo.

Hơn thế nữa, việc các cơ sở GDĐH thực hiện cung cấp dịch vụ theo kiểu kế hoạch hóa tập trung với một loạt các trường ĐH kiểu giống nhau, những chuyên ngành giống nhau, phương pháp và nội dung đào tạo như nhau và nhận cùng một mức tài chính từ chính phủ là không còn phù hợp nữa. Với sự thay đổi nhanh chóng của những tiến bộ KHCN, nhiều môn học, ngành học mới ra đời để đáp ứng những nhu cầu phát triển kinh tế rất riêng của quốc gia, vùng, địa phương và nhu cầu học tập hết sức phong phú và đa dạng của người học và gia đình họ. Điều này buộc các cơ sở GDĐH, để tồn tại và phát triển họ phải không ngừng cạnh tranh và đổi mới để tạo dựng được uy tín, thương hiệu cũng như tạo những nét riêng, khác biệt cho mình để người học/phụ huynh lựa chọn.

Nhóm nhân tố đặc điểm người học và gia đình

Có thể thấy rằng, hiệu quả đầu tư mà GDĐH mang lại cho cá nhân là cao nhất. Bởi vậy, việc yêu cầu những người trực tiếp “hưởng lợi” từ GDĐH đóng một phần phí “sử dụng dịch vụ” là hoàn toàn hợp lý. Điều này còn hợp lý hơn nữa khi ngân sách của các chính phủ sử dụng để cấp cho GDĐH có nguồn thu từ thuế do toàn dân đóng góp, trong khi thực tế thống kê cho thấy tỷ lệ dân số được đào tạo ở trình độ ĐH vẫn chiếm phần tương đối nhỏ ở hầu hết các quốc gia. Thêm vào đó, số sinh viên tới từ các gia đình nghèo khó hơn trong xã hội chiếm tỷ lệ rất nhỏ bé trong tổng số sinh viên đại học. Phần lớn còn lại đến từ các gia đình có điều kiện kinh tế khá giả, thuộc tầng lớp trung lưu hoặc thượng lưu trong xã hội. Điều này sẽ thật bất công nếu bắt người nghèo (số đông trong XH) không được nhận dịch vụ GDĐH phải “đóng tiền” hộ cho những người giàu “hưởng lợi” này (thiểu số) thông qua việc đóng thuế (mà chính phủ sử dụng nguồn thu từ thuế này để đầu tư cho GDĐH). Như vậy, trong trường hợp này, việc thu học phí từ phụ huynh và người học cũng là một cách để đảm bảo công bằng xã hội.

Mặt khác, về phía người học, thực tế cho thấy khi có một sự chia sẻ chi phí dù là nhỏ, phụ huynh và/hoặc người học sẽ phải hi sinh một vài nhu cầu nào đó khác của họ để dành khoản tiền này đóng góp cho cơ sở giáo dục. Điều này có tác dụng tạo ra sự khuyến khích lớn đối với một bộ phận sinh viên để họ học tập chăm chỉ và tốt nghiệp đúng hạn, nhờ đó có thể sớm tham gia thị trường lao động và sớm thu về khoản “vốn” đã đầu tư cho việc học đại học hay ít nhất cũng giúp họ giảm bớt các khoản học phí và lệ phí khác phát sinh do việc phải học lại, thi lại hay kéo dài thời gian hoàn thành chương trình học. Điều này được phản ánh qua “thu nhập kỳ vọng trong tương lai của người học”, và “cơ hội nghề nghiệp của người học trong tương lai”.

Đứng trước sức ép về nhu cầu GDĐH đang ngày càng gia tăng, Chính phủ Việt Nam đã có những giải pháp nhằm giải quyết vấn đề tài chính cho GDĐH, như đổi mới cơ chế tài chính cho GDĐH, thực hiện tự chủ tài chính ở các trường đại học công lập. Việc thực hiện chia sẻ chi phí GDĐH giữa Nhà nước và người học đã được triển khai, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế cần được khắc phục trong thời gian tới. Có thể thấy rằng, một số nhân tố ảnh hưởng đến chia sẻ chi phí GDĐH ở Việt Nam hiện nay được chia thành 4 nhóm nhân tố, đó là: (1) Xu thế phát triển của GDĐH trên thế giới, (2) Cơ chế tài chính cho GDĐH, (3) Đặc điểm của trường đại học, (4) Đặc điểm của người học và gia đình. Việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chia sẻ chi phí GDĐH là cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo để đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố tới chia sẻ chi phí GDĐH ở Việt Nam./.

 
NCS. Hoàng Thanh Huyền
Học viện Ngân hàng
 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
  1. Chính phủ (2014), Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24 tháng 10 năm 2014 của Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017.
  1. Đặng Thị Minh Hiền (2016), Hiệu quả đầu tư cho giáo dục đại học công lập ở Việt Nam theo cách tiếp cận phân tích lợi ích-chi phí, Luận án tiến sĩ, ĐH Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
  2. Johnstone D. Bruce (2004), “The economics and politics of cost sharing in higher education: comparartive perspectives”, Economics of Education Review, Số 23, Trang: 403-410.
  3. Lê Thị Minh Ngọc (2017), Đổi mới cơ chế tài chính đối với các trường đại học công lập ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Hà Nội.
  4. Nguyễn Ngọc Anh và cộng sự (2012), “Cơ chế phân bổ ngân sách cho Đại học công lập; Hiện trạng và khuyến nghị”, Hội thảo Đổi mới cơ chế tài chính đối với giáo dục đại học, Hà Nội tháng 11/2012.
  5. Nguyễn Ngọc Vũ (2012), “Thực trạng tình hình thí điểm tự chủ tài chính ở các cơ sở GDĐH-Một số vấn đề đặt ra”, Hội thảo Đổi mới cơ chế tài chính đối với giáo dục đại học, Hà Nội, tháng 11/2012.
  6. Nguyễn Trường Giang (2012), “Đổi mới cơ chế tài chính gắn với nâng cao chất lượng đào tạo đại học, thực hiện mục tiêu công bằng và hiệu quả”, Hội thảo Đổi mới cơ chế tài chính đối với giáo dục đại học, Hà Nội, tháng 11/2012.
  7. Nguyễn Văn Áng (2009), Xác định chi phí đào tạo đại học ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Mã số B2007-CTGD-07, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.
  8. OECD (2015), Education at a Glance 2015: OECD indicators, OECD Publishing.
  9. Phạm Hùng Hiệp, Trần Ngọc Anh (2014), “Chia sẻ chi phí: Rào cản hay tiền đề cho phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam?”, Kỷ yếu hội thảo: Hội thảo cải cách giáo dục đại học Việt Nam VED, Thành phố Hồ Chí Minh.
  10. Phạm Phụ (2005), “Bảy chính sách tài chính cho giáo dục đại học”, Tuoitre.vn, ngày 30/07/2005.
 
Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top