Xu hướng chuyển đổi từ kinh doanh truyền thống sang các nền tảng số đang ngày càng phổ biến và được coi là giải pháp hữu hiệu giúp các doanh nghiệp thâm nhập và mở rộng thị trường xuất nhập khẩu. Hoạt động logistics tại Việt Nam với vai trò là ngành dịch vụ trọng yếu, có giá trị gia tăng cao, tạo nền tảng cho thương mại hàng hóa, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế cũng đang từng bước triển khai chuyển đổi số nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới và cuộc cách mạng số đang phát triển mạnh mẽ trên toàn cầu.
Logistics đối mặt với nhiều khó khăn thách thức trong hội nhập
Các nghiên cứu về tình hình hoạt động của dịch vụ logistics cho thấy, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang làm thay đổi toàn bộ viễn cảnh của dịch vụ kho bãi và phân phối hàng hóa trên toàn thế giới. Việc kết nối với internet của những thiết bị phi truyền thống như pallet (kết cấu bằng phẳng để tải hàng hóa để lưu trữ hoặc được nâng chuyển bởi xe nâng tay, xe nâng máy), xe cần cẩu, thậm chí xe rơ-mooc chở hàng ngày càng được mở rộng. Các công ty logistics trên thế giới đang nhanh chóng cải tiến công nghệ để bắt kịp xu hướng này và cải thiện tỷ suất lợi nhuận thông qua việc trang bị các công cụ tự động, hiện đại.
Tại Việt Nam, những năm gần đây, ngành logistics có mức tăng trưởng cao 13-15%. Với khoảng 3.000 doanh nghiệp vận tải và logistics bao gồm cả đường bộ, đường sắt, đường biển, đường thủy nội địa, đường hàng không... đã giúp cho ngành logistics đạt được những kết quả tích cực, góp phần tạo điều kiện để Việt Nam nhanh chóng trở thành một trung tâm sản xuất mới trong khu vực, có năng suất lao động cao và năng lực cạnh tranh tốt. Tuy nhiên, điểm yếu hiện nay của ngành logistics chính là cơ sở hạ tầng chưa đầy đủ và hoàn thiện, hệ thống đường bộ có nhiều tuyến đường xuống cấp, quá tải và đường sắt chưa được đầu tư nâng cấp bởi chi phí đầu tư khá cao. Hơn nữa, hạ tầng cảng biển kém và không có dịch vụ hàng hải kết nối trực tiếp với các cảng biển tại châu Âu và Mỹ.
Bên cạnh đó, với tập quán và phương thức kinh doanh xuất nhập khẩu theo lối cũ nên khách hàng thường thuê phương tiện do đối tác nước ngoài đảm nhận, thay vì lựa chọn đội tàu trong nước để vận tải. Do đó khiến cho chi phí dịch vụ logistisc ở Việt Nam khá cao. Cụ thể, chi phí logistics chiếm 12% trong giá thành của các sản phẩm thủy sản, 23% giá thành đồ gỗ, 29% giá thành rau quả, 30% giá thành gạo... Ở mức này, chi phí logistics ở Việt Nam thường cao hơn Thái Lan tới 6%, hơn Malaysia 12% và hơn Singapore 300%...
Cùng với đó, phần lớn các doanh nghiệp logistics Việt Nam vẫn là doanh nghiệp nhỏ và vừa cả về vốn, lao động lẫn công nghệ. Tiềm lực tài chính còn khiêm tốn (80% doanh nghiệp thành lập có vốn đăng ký từ 1,5-2 tỷ đồng). Thiếu nền tảng CNTT đủ mạnh cho phép chuyển đổi kỹ thuật số, thiếu tư duy kỹ thuật số và hơn hết là sự hạn chế về khả năng đầu tư tài chính cho lĩnh vực CNTT cũng là điểm còn hạn chế của ngành logistics.
Ảnh minh họa: Nguồn internet
Bên cạnh vướng mắc về vốn, logistics Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm, năng lực cạnh tranh hạn chế nên chưa có cơ hội vươn ra thị trường có nhu cầu lớn. Thêm vào đó là thiếu sự liên kết đồng bộ giữa các doanh nghiệp, giữa các công đoạn khác nhau của hoạt động logistics. Dịch vụ logistics theo hướng thuê ngoài của các công ty sản xuất (dịch vụ 3PL, 4PL) đã xuất hiện có nhiều tiềm năng phát triển tại Việt Nam. Do đó, nếu chỉ cung cấp các dịch vụ kho vận đơn giản, thuần túy... mà không tích hợp chúng thành quá trình, chuỗi dịch vụ, doanh nghiệp cung ứng dịch vụ thì khó có thể thỏa mãn khách hàng về mặt chi phí cũng như tính đáp ứng nhanh của nhu cầu xuất, nhập khẩu.
Năng lực của doanh nghiệp logistics Việt Nam còn bị hạn chế bởi chất lượng nguồn nhân lực không đáp ứng được nhu cầu. Trong số các doanh nghiệp trong nước, có tới 93-95% người lao động không được đào tạo chuyên ngành logistics, chủ yếu làm dịch vụ ở các chuỗi cung ứng nhỏ như: Giao nhận, kho bãi, xử lý vận đơn... Quy mô doanh nghiệp logistics tại Việt Nam khá nhỏ, dưới 50 nhân viên chiếm tỷ lệ tới khoảng 32,4% và doanh nghiệp quy mô lớn (trên 1.000 nhân viên) chiếm tỷ lệ nhỏ chỉ khoảng 10,8%.
Trong bối cảnh Việt Nam đã và đang tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do với các cường quốc, khu vực kinh tế chủ chốt trên thế giới, thì sức ép cho ngành dịch vụ logistics theo thời gian sẽ ngày càng gia tăng, đặc biệt, đối với Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA), đã được ký kết và có hiệu lực từ ngày 01/8/2020. Theo đó, tại Hiệp định EVFTA, Việt Nam cam kết mở cửa thị trường đối với dịch vụ vận tải hàng không, vận tải đường bộ, đường sắt, vận tải biển, vận tải thủy nội địa và một số dịch vụ hỗ trợ mọi phương thức vận tải… Các chuyên gia kinh tế cho rằng, EVFTA sẽ mở ra không ít cơ hội kinh doanh và bảo hộ có ý nghĩa cho các nhà cung cấp dịch vụ logistics và đầu tư của Liên minh châu Âu (EU) khi bước chân vào thị trường của Việt Nam. Tuy nhiên, điều đó đồng nghĩa với việc sẽ tạo thêm sức ép lớn đối với các doanh nghiệp logistics trong nước, bởi các đối thủ cạnh tranh tới từ EU vốn đã rất phát triển và có tiềm lực hùng hậu. Do đó, để tận dụng được cơ hội này, các doanh nghiệp logistics Việt Nam buộc phải đổi mới, thúc đẩy cải cách hành chính và nâng cao năng lực cạnh tranh cho chính mình.
Năm 2020, những diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19 đã và đang gây nhiều khó khăn, thách thức cho các doanh nghiệp dịch vụ logistics, khi nguồn cung - cầu bị đứt gãy, chuỗi cung ứng bị đảo lộn, phương thức hoạt động, trao đổi thương mại… bị thay đổi. Theo khảo sát của Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA), 20-50% hoạt động của các hội viên bị ảnh hưởng về doanh thu. Dịch vụ logistics hàng không, đường bộ và đường sắt bị ảnh hưởng nhiều nhất, đặc biệt trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội. Do có đến 80% hội viên VLA là doanh nghiệp nhỏ và vừa nên nhiều doanh nghiệp bị đình trệ sản xuất và một số có thể sẽ phải giải thể nếu đại dịch kéo dài...
Xu hướng tất yếu và những nỗ lực trong chuyển đổi số của ngành logistics
Trước những khó khăn và hạn chế hiện hữu, cùng sự hội nhập ngày càng sâu rộng đã thúc đẩy hoạt động thương mại điện tử phát triển, là chất xúc tác cho các doanh nghiệp chuyển đổi số. Đối với các doanh nghiệp dịch vụ logistics, Covid-19 cũng được xem là cú hích trong việc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập và khắc phục những khó khăn do đại dịch gây ra. Sự chuyển đổi số của các doanh nghiệp dịch vụ logistics sẽ nhằm thay đổi sự trì trệ, tạo sự đột phá để nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm chi phí, tạo đà tăng trưởng, có thêm khách hàng và đạt lợi nhuận tối đa vượt trội so với trước khi chuyển đổi số.
Ngoài ra, chuyển đổi số trong các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics có quan hệ mật thiết và thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các tổ chức, đơn vị cung cấp dịch vụ công liên quan tới xuất nhập khẩu. Theo đó, yêu cầu lớn nhất về khoa học công nghệ trong ngành dịch vụ logisitics nước ta hiện nay là tăng cường số hóa và tự động hóa trong các hoạt động logistics.
Mới đây, Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam đã triển khai các dự án liên quan tới chuyển đổi số, như: Thử nghiệm mô hình mẫu, nhân rộng mô hình ứng dụng và chuyển giao giải pháp eDO (Lệnh giao hàng điện tử) và eBL (Vận đơn điện tử) cho hàng chung chủ (LCL) vận chuyển bằng đường biển và đường hàng không bằng công nghệ blockchain. Dự án này đang được tích cực nghiên cứu và chuẩn bị triển khai trong thời gian tới.
VLA cũng đã thỏa thuận cùng Tập đoàn FPT và Hiệp hội Nông nghiệp số (VIDA) thống nhất thành lập một công ty công nghệ cộng đồng hướng đến phát triển một trục công nghệ cơ sở để kết nối các ứng dụng công nghệ có sẵn, nhằm phục vụ chung cho cả cộng đồng doanh nghiệp dịch vụ logistics và cộng đồng chủ hàng. Việc xây dựng nền tảng số cho chuỗi dịch vụ logistics sẽ kết nối các bên liên quan trong chuỗi (cảng, hãng vận tải, đại lý, công ty giao nhận, kho,...) để chia sẻ dữ liệu, tăng tính hiện hữu cho chuỗi, nâng cao hiệu suất sử dụng, khai thác phương tiện, hiệu quả hoạt động và sản phẩm đầu tiên trên nền tảng số đó là eDO (Lệnh giao hàng điện tử) với công nghệ blockchain.
Bên cạnh đó, VLA đã phối hợp với Cục Ứng dụng và Phát triển Công nghệ - Bộ Khoa học và Công nghệ tiến hành xây dựng đề án “Nghiên cứu, phát triển, ứng dụng và chuyển giao một số công nghệ hỗ trợ ngành dịch vục logistics”. Đồng thời, nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ - Robotics và AGV - Công nghệ robot/ AI trong kho hàng với nhiều loại Robot, loại tự động cất trữ và lấy hàng (ASRS), Xe robot lấy hàng (Robotic forklift trucks), hay Bultler (Part-to-Picker)…
Đây là những bước đi đầu tiên thể hiện sự nỗ lực cũng như quyết tâm trong chuyển đổi số của ngành logistics. Tuy nhiên, trước những thách thức lớn đang đặt ra trong hội nhập hiện nay, để chuyển đổi số thành công ngành logistsics cần xây dựng một chiến lược dài hơi hơn. Do vậy, ngoài quyết tâm, sự chủ động và nỗ lực của doanh nghiệp là chính thì cũng cần phải có sự hỗ trợ của Nhà nước. Theo đó, Nhà nước cần tiến hành hoàn thiện khung khổ pháp lý cho việc chuyển đổi số, đặc biệt là vấn đề bảo mật, hợp tác phòng chống phá hoại, vấn đề quản trị kỹ thuật số, thuế đánh vào công nghệ số nhằm khuyến khích phát triển…
Nhà nước cần có chính sách khuyến khích chuyển đổi số, hỗ trợ về vốn vay và lãi vay ưu đãi cho các doanh nghiệp chuyển đổi số và các công ty khởi nghiệp về giải pháp công nghệ số. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp logistics có thể mua giải pháp hoặc thuê giải pháp từ các doanh nghiệp cung cấp phần mềm khi chưa có đủ khả năng tài chính.
Theo thống kê, hiện nay, các doanh nghiệp của Việt Nam đang cung cấp từ 2 đến 17 dịch vụ logisitics khác nhau, trong đó chủ yếu là dịch vụ giao nhận, vận tải, kho hàng, chuyển phát nhanh và khai báo hải quan. 50%- 60% doanh nghiệp đang ứng dụng các loại hình công nghệ khác nhau, tùy theo quy mô và tính chất dịch vụ của từng doanh nghiệp. Do đó, việc chuyển đổi số cần theo lộ trình phù hợp với khả năng của doanh nghiệp. Rà soát mục tiêu tập trung để thực hiện, đánh giá lại số liệu hiện có của doanh nghiệp, cải tiến quy trình cho cả hoặc một phần quy trình; lựa chọn công nghệ và nhà cung cấp giải pháp phù hợp lộ trình và khả năng tài chính với tầm nhìn dài hạn.
Ngoài ra, do logistics có mối quan hệ mật thiết cùng hệ thống giao thông vận tải nên khi triển khai chuyển đổi số cũng cần tập trung phát triển hệ thống giao thông thông minh, tập trung vào các hệ thống giao thông đô thị, đường cao tốc, quốc lộ. Chuyển đổi các hạ tầng logistics như cảng biển, cảng thủy nội địa, hàng không, đường sắt, kho vận…
Chú trọng phát triển nền tảng kết nối giữa các chủ hàng, các nhà giao vận và khách hàng thành hệ thống một cửa, cho phép chủ hàng có thể tìm ra phương tiện tối ưu nhằm vận chuyển hàng hóa và các kho bãi chính xác, hỗ trợ việc đóng gói và đăng ký, hoàn thiện quá trình xử lý các văn bản hành chính liên quan. Đồng thời, chuyển đổi việc quản lý kết cấu hạ tầng giao thông, phương tiện kinh doanh vận tải, quản lý người điều khiển phương tiện, cho phép quản lý kết cấu hạ tầng giao thông số, đăng ký và quản lý phương tiện qua hồ sơ số, cấp và quản lý giấy phép người điều khiển phương tiện số…
Đặc biệt, để chuyển đổi số thành công, bắt nhịp với sự phát triển của chuỗi cung ứng số trong khu vực và quốc tế, các doanh nghiệp dịch vụ logistics cần tự tìm kiếm các cơ hội phát triển, cải thiện trình độ công nghệ thông tin, tăng cường ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật để kết nối thông tin, nhất là mạng lưới logistics toàn cầu./.
Thu Hòa