Trong 5 năm qua với sự quyết tâm, nổ lực của cả hệ thống chính trị, phát huy tốt nội lực, tranh thủ ngoại lực để đầu tư phát triển bền vững, diện mạo khu vực nông thôn của TP. Đà Nẵng đã từng bước thay đổi. Kết quả Điều tra Nông thôn, nông nghiệp giữa kỳ năm 2020 đã cho thấy bức tranh toàn cảnh về kinh tế - xã hội nông thôn và sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản TP. Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020 có những đổi mới mang tính tích cực, có nhiều thành tựu nổi bật.
Chuyển dịch kinh tế - xã hội khu vực nông thôn
Là khu vực kinh tế quan trọng của miền Trung, TP. Đà Nẵng có diện tích tự nhiên 1.285 km2, trong đó khu vực nông thôn là 733 km2. Kết quả Điều tra Nông thôn, nông nghiệp giữa kỳ năm 2020 của Cục Thống kê TP. Đà Nẵng cho thấy, tính đến ngày 01/7/2020, khu vực nông thôn có 38.669 hộ dân cư và 146.066 nhân khẩu, tăng 14,06% về số hộ và tăng 15,81% về số nhân khẩu so với cùng kỳ năm 2016.
TP. Đà Nẵng là một trong những địa phương đạt được kết quả tốt trong thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới. Có thể thấy, để thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, Thành phố đã ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ đầu tư và huy động nguồn lực. Kết quả trong giai đoạn 2016-2020, Thành phố đã huy động được 2.189,6 tỷ đồng, trong đó: Vốn ngân sách Trung ương là 94,371 tỷ đồng, ngân sách địa phương là 1.078 tỷ đồng, vốn tín dụng là 521,6 tỷ đồng và vốn cộng đồng dân cư là 495,6 tỷ đồng. Đến năm 2020, có 11/11 xã được công nhận đạt chuẩn giai đoạn 2016-2020, 12 thôn được công nhận là thôn kiểu mẫu, 36 vườn mẫu đạt chuẩn, 35 tuyến đường giao thông kiểu mẫu đạt chuẩn, nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được hình thành, hỗ trợ xây dựng vườn mẫu, vườn kinh tế; cơ sở hạ tầng được đầu tư đồng bộ theo hướng đô thị.
Giám sát viên giám sát công tác thu thập thông tin tại xã Hòa Sơn, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
Cùng với chương trình xây dựng nông thôn mới, công tác giảm nghèo tại khu vực nông thôn cũng luôn được thành phố và địa phương quan tâm. Kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp giữa kỳ năm 2020 cho thấy, trong giai đoạn 2016 - 2020 khu vực nông thôn đã giảm được 735 hộ nghèo, tương ứng giảm 29,96% và 358 số hộ cận nghèo tương ứng với 29,11%.
Kết cấu hạ tầng nông thôn là điều kiện để phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí và là nội dung quan trọng của Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Trong những năm qua, đặc biệt trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020, Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 30/12/2016 về phương hướng, nhiệm vụ xây dựng, phát triển huyện Hòa Vang đến năm 2020 và những năm tiếp theo. Thực hiện phương châm: “Dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra giám sát, dân thụ hưởng”, vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng nông thôn nói chung và xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn nói riêng được khơi dậy và phát huy mạnh mẽ. Nhờ đó, mạng lưới điện đã được phủ rộng hầu hết khắp khu vực nông thôn, cung cấp điện ổn định cho nhu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp, công nghiệp chế biến và ngành dịch vụ nông nghiệp; đồng thời góp phần cải thiện đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của dân cư. Kết quả điều tra Nông thôn, nông nghiệp giữa kỳ năm 2020 cho thấy, có 100% số xã và số thôn có điện; 100% số hộ tại khu vực nông thôn trên địa bàn Thành phố được sử dụng điện lưới quốc gia, tương ứng với 38.669 hộ, tăng 4.786 hộ so với năm 2016 (tỷ lệ hộ sử dụng điện lưới quốc gia năm 2016 là 99,91%). Trong giai đoạn này, sản lượng điện năng khu vực nông thôn của Thành phố cũng được cải thiện rõ rệt nhằm cung cấp nguồn điện ổn định, đủ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh và sinh hoạt của người dân qua các năm.
Trong 5 năm, hệ thống giao thông nông thôn phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng góp phần làm cho diện mạo nông thôn ngày càng đổi mới, giao thông đi lại thuận tiện, đời sống của người dân ngày càng được nâng lên. Tại thời điểm 01/7/2020, 100% số xã có đường ô tô từ trụ sở UBND xã đến trụ sở UBND huyện; giao thông nông thôn đảm bảo thường xuyên thông suốt, 100% xã có đường ô tô đến trụ sở UNBD xã đi lại được quanh năm. Trong đầu tư cải tạo, nâng cấp chất lượng hệ thống giao thông nông thôn, số xã có đường giao thông chủ yếu từ trụ sở UBND xã đến UBND huyện được trải nhựa, bê tông hóa là 11 xã, chiếm 100% tổng số xã hiện có của khu vực nông thôn. Năm 2020, Thành phố có 11 xã có đường trục xã và đường trục thôn được nhựa hoá hoặc bê tông hoá, đạt tỷ lệ 100%; 11 xã có đường trục xã nhựa hoá hoặc bê tông hoá từ 75% đến dưới 100% (năm 2016 tỷ lệ này chỉ đạt 90,91%). Ngoài ra, hệ thống giao thông đến cấp xã, cấp thôn cũng được chú trọng phát triển về chất lượng. Số thôn có đường ô tô đi đến được đạt 100%. Đây là điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng giao thông phục vụ sản xuất nông nghiệp, kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt của cư dân nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Thành tựu nổi bật nhất của hệ thống hạ tầng giáo dục ở khu vực nông thôn của Thành phố trong những năm vừa qua là số trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia tăng đáng kể. Theo kết quả điều tra năm 2020, mạng lưới trường lớp các cấp học tiếp tục được bao phủ rộng khắp. Tất cả các xã thuộc khu vực nông thôn của Thành phố đều có trường mẫu giáo, mầm non, trường tiểu học và trung học cơ sở. Tổng số trường của các cấp học lần lượt là 19 trường mầm non, mẫu giáo; 19 trường tiểu học và 11 trường trung học cơ sở. Riêng số xã có trường trung học phổ thông là 3 xã, đạt 27,3% trên tổng số xã của khu vực nông thôn. Sau 5 năm, tỷ lệ trường mẫu giáo, mầm non được xây dựng kiên cố tăng từ 69,2% năm 2016 lên 100% năm 2020; tỷ lệ này đối với khối tiểu học tăng từ 89,47% lên 100%; đối với khối trung học cơ sở tăng từ 81,2% lên 100% và ở cấp học trung học phổ thông là 100% trong năm 2020. Cơ sở vật chất các trường đều đạt 100% theo tiêu chí nông thôn mới.
Hệ thống nhà văn hoá, nhà sinh hoạt cộng đồng thôn, xã tiếp tục được chính quyền các cấp, các ngành của thành phố quan tâm, ưu tiên phân bổ các nguồn vốn đầu tư xây dựng, cải thiện chất lượng phục vụ cho nhân dân trong tổ chức hội họp và sinh hoạt văn hoá, văn nghệ. Theo kết quả điều tra, tại thời điểm 01/7/2020, trên địa bàn khu vực nông thôn Thành phố có 11/11 xã có nhà văn hóa, chiếm tỷ lệ 100% tổng số xã (năm 2016 là 11 xã, chiếm 100%). Số thôn có nhà văn hóa đạt 113 thôn, đạt tỷ lệ 100% tổng số thôn. 100% số xã có sân thể thao; số thôn có khu thể thao đã tăng lên 101 thôn năm 2020, chiếm 89,38% tổng số thôn, (năm 2016 là 75 thôn, chiếm 63,03%). Hệ thống thông tin liên lạc khu vực nông thôn đã được nâng cấp và hoàn thiện phục vụ tốt hơn hoạt động quản lý của các cấp, các ngành, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể và hộ dân cư. Năm 2020, số xã có trạm bưu điện là 10 xã, chiếm 90,91% tổng số xã (tương đương với năm 2016). Trong đó, xã có điểm bưu điện văn hóa có máy vi tính truy cập internet phục vụ cho nhân dân là 10 xã, chiếm 90,91% tổng số xã (tương đương với tỷ lệ năm 2016). Năm 2020, 100% xã có tủ sách pháp luật (tương đương với năm 2016) và có hệ thống loa truyền thanh bao phủ rộng khắp khu vực nông thôn.
Hệ thống cơ sở y tế nông thôn tiếp tục được củng cố, phát triển. 11 xã thuộc khu vực nông thôn đều có trạm y tế và có 100% số xã được công nhận đạt tiêu chí quốc gia về y tế. Tỷ lệ xã có trạm y tế xã được xây dựng kiên cố năm 2020 đạt 100%, tăng 9,09 điểm phần trăm so với năm 2016. Mạng lưới nhân viên y tế thôn được xem là cánh tay nối dài của ngành y tế, là nhân tố then chốt trong việc tuyên truyền, giáo dục sức khỏe, giúp người dân ở khu vực nông thôn tiếp cận được với quyền lợi được chăm sóc y tế, do vậy, trong những năm qua, hệ thống y tế cơ sở cấp thôn luôn được duy trì và đầu tư đúng mức. Tính đến năm 2020, thành phố Đà Nẵng có 100% số thôn có cán bộ y tế để chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân, góp phần quan trọng thực hiện có hiệu quả trong việc triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế. Cùng với đầu tư cơ sở vật chất, các tuyến y tế xã, thôn còn được tăng cường về nhân lực. Năm 2020, có 11 trạm y tế xã có bác sỹ, chiếm 100% tổng số trạm y tế xã, tăng 27,3% so với năm 2016; số lượng bác sỹ trên 1 vạn dân tại khu vực nông thôn trong 05 năm qua có xu hướng tăng từ 0,63 bác sỹ năm 2016 lên 0,75 bác sỹ vào năm 2020. Ngoài ra, khu vực nông thôn của Thành phố còn có 40 cơ sở hành nghề y, 92 cơ sở hành nghề dược đang hoạt động.
Chợ là bộ phận quan trọng trong cấu thành mạng lưới phân phối hàng hóa, đẩy mạnh sản xuất, mở rộng phát triển thị trường giao lưu hàng hóa giữa các vùng và trong nội bộ nhân dân trên địa bàn. Theo kết quả điều tra giữa kỳ năm 2020, khu vực nông thôn có 11 xã có chợ, chiếm 100% tổng số xã, tăng 9,09% so với năm 2016 (năm 2016 là 10 xã có chợ, chiếm 90,91% tổng số xã), phần lớn các chợ đã được xây dựng kiên cố, bán kiên cố. Để tạo điều kiện thuận lợi trong tiếp cận các nguồn vốn tín dụng của nhà nước phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của bà con nông dân, hệ thống tín dụng, ngân hàng đã được phân bổ rộng khắp. Trong năm 2020, đã có 8.525 hộ được tiếp cận và vay vốn từ các chương trình, dự án ưu đãi từ ngân hàng nhà nước, chiếm 22,1% số hộ của khu vực nông thôn, tăng 2.809 hộ so với năm 2016. Số vốn vay bình quân 1 hộ tăng từ 19,4 triệu đồng năm 2016 lên 29,4 triệu đồng năm 2020.
Nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo vệ sức khỏe của dân cư nông thôn, Thành phố cũng quan tâm đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng môi trường. Tính đến ngày 01/7/2020, xã có hệ thống thoát nước thải chung trên địa bàn xã là 81,82% trên tổng số xã, tăng 63,64% điểm phần trăm và 53,10% số thôn đã xây dựng hệ thống thoát nước thải sinh hoạt chung, tăng 48,06 điểm phần trăm so với năm 2016. 100% số xã và 100% số thôn có tổ chức thu gom rác thải sinh hoạt, tỷ lệ này tương đương với năm 2016.
Hệ thống thủy nông được đầu tư kiên cố hóa, nâng cao năng lực tưới tiêu. Các công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn cũng được đầu tư, nâng cấp đảm bảo cung cấp nguồn nước sạch cho các hộ dân, đến cuối năm 2020, cơ bản 100% hộ dân nông thôn được sử dụng nguồn nước sạch đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia.
Trong những năm qua, trình độ chuyên môn và điều kiện làm việc của cán bộ chủ chốt xã được cải thiện, kiện toàn và nâng lên đáng kể. Tính đến ngày 01/7/2020, tổng số cán bộ chủ chốt xã là 54 người. Tỷ lệ cán bộ chủ chốt có bằng đại học là 62,96% (năm 2016 chiếm 73,59%); tỷ lệ cán bộ chủ chốt có bằng trên đại học là 37,04% (năm 2016 là 18,86%). Tỷ lệ cán bộ được bồi dưỡng các lớp lý luận chính trị từ trung cấp trở lên tăng từ 91,15% năm 2016 lên 98,15% năm 2020; trong đó, cán bộ được bồi dưỡng trình độ cao cấp lý luận chính trị được nâng lên từ 39,20% năm 2016 lên 57,41% trong năm 2020. Cùng với việc kiện toàn bộ máy lãnh đạo chủ chốt xã, trụ sở làm việc của Đảng ủy, UBND xã cũng được nâng cấp, tạo điều kiện tốt hơn trong thực hiện nhiệm vụ của chính quyền cấp xã. Năm 2020, có 100% trụ sở làm việc của Đảng ủy, HĐND và UBND xã được kiên cố hóa. Việc ứng dụng tin học trong công tác điều hành và chuyên môn của Đảng ủy, HĐND và UBND xã cũng được đẩy mạnh với 100% trụ sở làm việc có máy vi tính và được kết nối internet.
Kết quả sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản nhìn từ cuộc điều tra
Trong những năm 2016-2020, các đơn vị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản khu vực nông thôn của Thành phố tiếp tục thực hiện quá trình tổ chức lại sản xuất, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển hiệu quả và bền vững. Kết quả điều tra Nông thôn, nông nghiệp giữa kỳ năm 2020 cho thấy, tại thời điểm 1/7/2020, Thành phố có 65,62% hộ nông nghiệp, 5,25% hộ lâm nghiệp và 29,13% hộ thủy sản. Số lao động bình quân của một hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản là 2,61 người, trong đó hộ thủy sản có lao động bình quân cao nhất là 2,75 người, tiếp đến là hộ lâm nghiệp với 2,33 người/hộ và thấp nhất là hộ nông nghiệp với 2,29 người/hộ.
Về mô hình tổ chức sản xuất, tại thời điểm 01/7/2020, toàn thành phố Đà Nẵng có 19 trang trại. Chia theo loại hình sản xuất có 01 trang trại trồng trọt, chiếm 5,26% tổng số trang trại, tỷ lệ này tương đương với năm 2016; 13 trang trại chăn nuôi, chiếm 68,42% (năm 2016 tỷ lệ 63,16%); 04 trang trại lâm nghiệp, chiếm 21,05% (năm 2016 tỷ lệ là 15,8%); không có trang trại thuỷ sản, năm 2016 có 1 trang trại chiếm 5,26%; trang trại tổng hợp có 01 trang trại, chiếm 5,26% (năm 2016 có tỷ lệ là 10,53%). Sự gia tăng số lượng trang trại chăn nuôi được xem là phù hợp với các chính sách phát triển chăn nuôi theo mô hình tập trung, quy mô lớn, xa khu dân cư giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường.
Năm 2020, kết quả sản xuất của các trang trại đã tạo ra 67.258 triệu đồng giá trị thu được từ nông, lâm, thủy sản (năm 2016 là 51.197 triệu đồng). Bình quân 1 trang trại thu được giá trị nông, lâm, thủy sản là 3.539,9 triệu đồng, gấp 1,31 lần so với năm 2016.
Phát triển kinh tế trang trại là hướng đi đúng đắn giúp người dân phát huy được lợi thế, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh. Thông qua phát triển kinh tế trang trại đã góp phần quan trọng trong quá trình chuyển dịch sản xuất từ nhỏ lẻ sang sản xuất lớn, sản xuất hàng hóa, tập trung nguồn lực thông qua quá trình tích tụ ruộng đất gắn liền thu hút lao động ở nông thôn, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp.
Bên cạnh đó, mạng lưới hợp tác xã (HTX) nông nghiệp dần thu hẹp và đang trong quá trình tổ chức, sắp xếp, cơ cấu lại cũng đã đem lại những hiệu quả thiết thực. Kết quả điều tra năm 2020, tổng số HTX nông, lâm nghiệp và thủy sản là 15 HTX, trong đó 13 HTX trồng trọt, chiếm 86,66% tổng số HTX nông, lâm nghiệp và thủy sản; 01 HTX nuôi trồng thủy sản, chiếm 6,67%; 01 HTX chăn nuôi, chiếm 6,67%. Doanh thu bình quân 01 HTX đang hoạt động năm 2019 là 1.230 triệu đồng, thu nhập bình quân 01 HTX đang hoạt động là 65 tỷ đồng (không tính các HTX tạm ngừng hoạt động). Thu nhập bình quân 01 lao động thường xuyên là 45 triệu đồng/người/năm. Tính đến tháng 7/2020, Thành phố có 09 HTX nông nghiệp tổ chức các dịch vụ liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm cho thành viên. Các sản phẩm tham gia liên kết tiêu thụ gồm lúa giống, rau an toàn, hoa, gà, nấm ăn và nấm dược liệu. Thực hiện Quyết định số 3075/QĐ-BNN-QLCL ngày 20/7/2016 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đến nay thành phố Đà Nẵng đã xác nhận 09 chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn./.
M.T (Tổng hợp)