Kinh tế - xã hội tỉnh Bến Tre phục hồi tốt và đạt nhiều kết quả tích cực trong quý I/2023

12/04/2023 - 09:48 AM
Trong quý I năm 2023, nhờ sự chung tay vào cuộc của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Bến Tre tiếp tục trên đà phục hồi khá tốt. Nhờ đó, một số lĩnh vực kinh tế đã đạt được kết quả khả quan, đóng góp lớn vào sức tăng trưởng chung của Tỉnh.

Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý I năm 2023 của Cục Thống kê tỉnh Bến Tre đã cho thấy kết quả đạt được của một số lĩnh vực chủ yếu cụ thể như sau:

Tài chính, ngân hàng

Trong quý I năm 2023, ước thực hiện thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Bến Tre đạt được 1.661,7 tỷ đồng, đạt 30,84% dự toán Trung ương giao, đạt 29,90% dự toán địa phương phấn đấu, tăng 12,88% so cùng kỳ. Trong đó, thu nội địa 1.640 tỷ đồng, đạt 31,19% dự toán Trung ương giao và 30,21% địa phương phấn đấu, tăng 12,83% so cùng kỳ; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu ước đạt 21,7 tỷ đồng, đạt 16,72% dự toán trung ương và địa phương giao, tăng 17,21% so với cùng kỳ. Có 13/18 khoản thu, sắc thuế thu đạt và vượt so với tiến độ dự toán. Ước tổng chi ngân sách địa phương là 2.864,5 tỷ đồng, đạt 22,59% dự toán Trung ương giao và 22,29% dự toán địa phương phấn đấu, tăng 9,13% so cùng kỳ; trong đó, chi thường xuyên là 1.440,1 tỷ đồng đạt 20,74% dự toán, so cùng kỳ giảm 5,83%, chi đầu tư phát triển là 1.422,5 tỷ đồng đạt 26,22% dự toán, so cùng kỳ tăng 29,97%.

 Các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn chủ động cân đối nguồn vốn đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu tín dụng hỗ trợ phát triển kinh tế địa phương ngay từ đầu năm, nguồn vốn huy động, dư nợ tín dụng duy trì tốc độ tăng trưởng tích cực, đến cuối quý I/2023, tổng nguồn vốn huy động ước đạt 53.300 tỷ đồng, tăng 5,4% so đầu năm;  tổng số tiền cho vay trong quý ước 21.640 tỷ đồng, tăng 11,4% so cùng kỳ năm 2022; dư nợ ước đạt 58.300 tỷ đồng, tăng 4,4% so đầu năm; nợ xấu chiếm khoảng 1,2% tổng dư nợ. Các ngành, lĩnh vực trọng điểm được quan tâm triển khai thực hiện tốt. Các chương trình tín dụng chính sách tiếp tục được triển khai thực hiện tốt, dư nợ cho vay đến cuối tháng 2/2023 đạt 3.434 tỷ đồng, tăng 1,6% so đầu năm, với 124.400 hộ còn dư nợ, góp phần xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống Nhân dân.

 
Kinh tế - xã hội tỉnh Bến Tre phục hồi tốt và đạt nhiều kết quả tích cực trong quý I/2023
Thành phố Bến Tre
Giá cả

Ngay từ quý đầu tiên của năm 2023, chỉ số giá tiêu dùng bình quân của Bến Tre đã tăng 2,90% so với cùng kỳ năm trước. Một số nhóm hàng có giá biến động lớn so cùng kỳ năm trước như nhóm giáo dục 7,32%; ăn uống ngoài gia đình tăng 7,21%; nhóm nhà ở, chất đốt, vật liệu xây dựng tăng 4,35%; nhóm giao thông giảm 1,64%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế cùng nhóm bưu chính viễn thông chỉ số giá tăng nhẹ 0,61% và 0,88%.

Chỉ số giá đô la Mỹ trên địa bàn trong tháng 3 tăng 0,56% so với tháng trước, giá bình quân là 23.860 VNĐ/1USD, giá USD trong tháng biến động tăng theo giá USD trên thế giới. Bình quân quý I/2023, giá USD tăng 3,69% so với cùng kỳ năm trước. Giá vàng trong tháng 3 biến động giảm 0,89% so tháng trước do ảnh hưởng giá vàng trong nước và thế giới có biến động giảm. Bình quân quý I/2023, giá vàng tăng 0,05% so với cùng kỳ năm trước.

Tình hình hoạt động của doanh nghiệp (DN), hợp tác xã (HTX)

Các hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp và phát triển DN trên địa bàn tỉnh Bến Tre được thực hiện thường xuyên và liên tục. Tổ chức thành công buổi “Họp mặt Doanh nghiệp Đầu Xuân Quý Mão 2023” thu hút hơn 200 đại biểu là doanh nhân, doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh tham gia; họp mặt khởi nghiệp định kỳ. Tiếp và làm việc với 24 dự án, ý tưởng, hộ kinh doanh (HKD) chuyển lên DN; có 07 HKD chuyển lên DN, 27 DN khởi nghiệp; hỗ trợ 55 lượt DN thực hiện các thủ tục tạm ngừng kinh doanh, hiệu đính thông tin đăng ký kinh doanh, đăng ký thành lập mới, chuyển từ HKD lên DN; hỗ trợ 24 lượt cơ sở vật chất, hội trường cho các đơn vị tổ chức sự kiện. Hiện có 21 người đăng ký làm việc thường xuyên tại không gian làm việc chung Mekong Innovation Hub. Trong quý I, đã có 126 DN và 105 đơn vị trực thuộc (ĐVTT) thành lập mới với vốn đăng ký 582,5 tỷ đồng, so cùng kỳ năm trước số DN giảm 19,7%, vốn đăng ký giảm 14,6%. Đồng thời trong quý cũng đã có 18 DN giảm 50% so cùng kỳ; 124 DN thông báo tạm ngừng hoạt động, tăng 10,7% so cùng kỳ. Tính đến 15/3/2023, toàn tỉnh có 5.809 DN đã đăng ký thành lập với tổng vốn đăng ký ban đầu là 67.309 tỷ đồng.

Các HTX, tổ hợp tác tiếp tục được quan tâm củng cố. Trong quý, không thành lập mới HTX nhưng có 01 HTX xin giải thể, lũy kế đến nay toàn tỉnh Bến Tre có 178 HTX với tổng vốn điều lệ 308,566 tỷ đồng và 47.599 thành viên.

Đầu tư và Xây dựng

Trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội của quý I năm 2023 tiếp tục phát triển ổn định, Tỉnh ủy Bến Tre đã xác định quyết tâm thực hiện đạt và vượt tất cả các mục tiêu, chỉ tiêu chính của Nghị quyết Đại hội XI Đảng bộ tỉnh đề ra. Trong năm 2023, tỉnh Bến Tre có nhiều công trình, dự án lớn được triển khai và đưa vào sử dụng sẽ tạo ra động lực mới trong phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.

Về vốn đầu tư: Kế hoạch vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước năm 2023 được giao ngay từ đầu năm; tập trung chỉ đạo các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ thực hiện đối với các dự án chuyển tiếp và hoàn thiện các thủ tục đầu tư, nhất là đối với các dự án khởi công mới trong năm 2023 để đảm bảo tiến độ giải ngân theo kế hoạch vốn đã giao. Ước giải ngân vốn đầu tư công đến hết quý I đạt 26,22% kế hoạch.

Đối với vốn từ chính sách hỗ trợ theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội, tỉnh Bến Tre có 04 dự án thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, tổng kế hoạch vốn đã được Trung ương phân bổ là 1.045 tỷ đồng; với nhiệm vụ thực hiện và giải ngân hết kế hoạch vốn được giao từ Chương trình trong năm 2023, UBND tỉnh đã chỉ đạo tập trung triển khai các dự án ngay khi được thông báo kế hoạch vốn; hiện có 01 dự án lĩnh vực nông nghiệp đã triển khai thi công và 03 dự án còn lại ở lĩnh vực giao thông và y tế đang tổ chức lựa chọn nhà thầu thi công và mua sắm theo quy định.

Hoạt động xúc tiến đầu tư và cấp phép đầu tư: Trong quý I/2023, chưa có dự án trong nước được cấp phép đầu tư mới. Hiện toàn tỉnh Bến Tre có 265 dự án đầu tư trong nước còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 60.992,64 tỷ đồng. Về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Tỉnh đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 1 dự án: dự án Nhà máy Công ty TNHH Genova Group của GTIG HUBO INDUSTRIAL CO., LTD có vốn đăng ký ban đầu là 4 triệu USD. Đồng thời cấp điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư cho 06 dự án đã được cấp phép trước đó. Lũy kế đến thời điểm hiện tại, toàn tỉnh có 64 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 1.628,94 triệu USD.

Về xây dựng: Giá trị sản xuất xây dựng theo giá hiện hành quý I/2023 tại Bến Tre ước thực hiện 3.003,729 tỷ đồng, giảm 5,63% so với quý trước và tăng 9,53% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do phần lớn các công trình; nhà cửa người dân đã được xây cất, sửa chữa và thực hiện xong trong quý IV/2022. Bước sang quý I/2023 các công trình/dự án chờ phê duyệt, phân bổ vốn để tiếp tục triển khai kế hoạch thi công. Ngoài ra, sau thời gian nghỉ Tết Nguyên Đán các doanh nghiệp, chủ thầu thi công gặp khó khăn trong việc lo kiếm công trình mới và ổn định nhân công để tiếp tục hoạt động sản xuất. Quá trình sản xuất không ổn định, cơ cấu tổ chức bị xáo trộn đã làm ảnh hưởng đến tiến độ thi công và chất lượng công trình cũng giảm đi. Do đó, giá trị sản xuất ước thực hiện quý I/2023 giảm đáng kể so với thực hiện quý trước.

Tình hình sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Trong quý báo cáo, thời tiết trên địa bàn tỉnh Bến Tre là mùa khô kết hợp gió mùa thổi mạnh làm nước biển dâng cao nên nước mặn xâm nhập sâu vào đất liền. Tuy nhiên, do hệ thống thủy lợi trên địa bàn tỉnh cơ bản khép kín, nên đến nay, tình hình hạn mặn có phát sinh nhưng chưa đến mức độ nghiêm trọng. Quý I/2023, người trồng lúa trên địa bàn tỉnh Bến Tre tập trung chăm sóc và thu hoạch vụ lúa mùa và đông xuân năm 2023. Tổng diện tích xuống giống và thu hoạch trong quý là 6.227 ha, tăng 6,86% so cùng kỳ năm trước. Tổng sản lượng lúa toàn tỉnh trong quý báo cáo được 26.542 tấn, tăng 8,36% (tương ứng tăng 2.048 tấn) so cùng kỳ. Cây ngô diện tích gieo trồng ước tính đến nay được 55 ha, giảm 6,78% (tương ứng giảm 4 ha) so với cùng kỳ năm trước do hiệu quả không cao nên chuyển đổi sang cây trồng khác. Tổng diện tích rau màu các loại toàn tỉnh đến nay là 1.106 ha, tăng 8,22% (tương ứng tăng 84 ha) so với cùng kỳ năm trước. Trong quý này, tình hình trồng hoa ngắn ngày phục vụ Tết Nguyên đán sôi động hơn những thời điểm khác trong năm. Ước tính toàn tỉnh có khoảng 217 ha được trồng tập trung ở hai huyện Chợ Lách và Mỏ Cày Bắc. Tổng sản lượng hoa các loại phục vụ thị trường năm nay toàn tỉnh ước tính khoảng 5 triệu sản phẩm. Với cây lâu năm, tổng diện tích dừa toàn tỉnh Bến Tre hiện nay là 78.015 ha, tăng 1,02% (tương ứng tăng 785 ha) so cùng kỳ năm trước. Tổng sản lượng dừa toàn tỉnh trong quý thu được 180.469 tấn (tương đương 180.469 nghìn quả), tăng 2,36% (tương ứng tăng 4.154 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng tăng nhẹ chủ yếu là do tăng diện tích cho sản phẩm. Tổng diện tích dừa xiêm xanh uống nước toàn tỉnh hiện nay khoảng 15.869 ha, chiếm 20,34% trong tổng diện tích dừa của tỉnh. Tổng sản lượng dừa xiêm trong quý ước tính được khoảng 40,1 triệu quả. Hiện tại vào mùa nắng nóng nên sản lượng cũng như giá bán dừa xiêm cũng tăng hơn so những thời điểm khác trong năm; giá dừa khô ổn định so tháng trước và dao động từ 35.000 - 40.000 đồng/12 quả. Bên cạnh đó, nhà vườn vẫn tiếp tục cải tạo trồng mới, chăm sóc và thu hoạch sản phẩm trái cây các loại như: bưởi, chuối, cam, chanh, nhãn, xoài, mít... Tổng diện tích cây ăn quả toàn tỉnh hiện có là 25.139 ha, giảm 3,90% (tương ứng giảm 1.021 ha) so cùng kỳ năm trước. Tổng sản lượng trái cây các loại ước tính trong quý báo cáo toàn tỉnh được 90.429 tấn, giảm 0,67% (tương ứng giảm 607 tấn) so cùng kỳ năm trước, giảm chủ yếu ở nhóm cây: chôm chôm, chuối, cam, bưởi, nhãn...

Về lâm nghiệp, Trong quý I, toàn tỉnh có sản lượng gỗ khai thác ước được 375 m3; củi khai thác được 4.383 ste. Tổng số cây phân tán trồng trong quý ước được 7,35 nghìn cây các loại. Do đặc điểm tỉnh Bến Tre chỉ có diện tích rừng ngập mặn, khả năng cháy rất ít xảy ra. Tuy nhiên, hiện tại là mùa khô nên công tác phòng và chữa cháy rừng đặc biệt được quan tâm đúng mức nên trong quý không phát hiện vụ cháy rừng.

Về sản xuất và nuôi trồng thủy sản, tổng sản lượng thủy sản ước thực hiện trong quý là 120,74 nghìn tấn tăng 0,32% (tương ứng tăng 384 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Trong quý diện tích thả nuôi cá tra thâm canh trong quý là 96 ha, so với cùng kỳ năm trước tăng 4,35% (tương ứng tăng 4 ha). Sản lượng cá thu hoạch ước đạt 29.650 tấn, tăng 5,22% (tương ứng tăng 1.470 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Diện tích thả nuôi tôm sú trong quý báo cáo ước tính khoảng 24.008 ha, tăng 0,6% (tương ứng tăng 144 ha) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng tôm sú thu hoạch trong quý ước đạt 779 tấn, tăng 4,56% (tương ứng tăng 34 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Diện tích thả nuôi tôm thẻ chân trắng trong quý báo cáo ước tính khoảng 3.610 ha, so với cùng kỳ năm trước tăng 5,09% (tương ứng tăng 175 ha). Sản lượng tôm thu hoạch trong quý ước đạt 25.948 tấn, tăng 12,07% (tương ứng tăng 2.795 tấn) so cùng kỳ năm trước.  Sản lượng khai thác thủy sản trong quý ước đạt 53.326 tấn, giảm 7,29% (tương ứng giảm 4.192 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân sản lượng đánh bắt trong quý giảm là do thời tiết không thuận lợi, biển động nên sản lượng đánh bắt không nhiều.

Tình hình sản xuất công nghiệp

Tình hình sản xuất kinh doanh của các đơn vị tỉnh Bến Tre trong quý I gặp khó khăn ở một số ngành như: chế biến các sản phẩm từ dừa; sản xuất các sản phẩm da; sản xuất xe có động cơ…Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp của Tỉnh giảm 1,34% so quý trước và tăng 2,13% so cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, có một số ngành có chỉ số tăng so với cùng kỳ năm trước như: Chỉ số sản xuất ngành khai khoáng khác tăng 1,79%; sản xuất chế biến thực phẩm giảm 2,25%; sản xuất đồ uống tăng 8,81%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 11,43%; sản xuất các sản phẩm dệt tăng 32,66; sản xuất trang phục tăng 24,56%.

Chỉ số tiêu thụ giảm 35,42% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: Sản xuất chế biến thực phẩm giảm 6,49%; sản xuất đồ uống tăng 54,19%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 6,93%; dệt tăng 12,48%; sản xuất trang phục tăng 2,11%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 12,28%; sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy giảm 3,92%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 2,83%; sản xuất xe có động cơ giảm 39,55% so cùng kỳ năm trước.

 Chỉ số sử dụng lao động trong quý I (chỉ tính cho khu vực doanh nghiệp) giảm 1,83% so cùng kỳ năm trước. Chia theo loại hình doanh nghiệp: Doanh nghiệp Nhà nước tăng 0,45%; Doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 1,84%; Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 1,96%. Hầu hết các doanh nghiệp (doanh nghiệp ngoài Nhà nước) gặp khó khăn trong việc thu hút lao động: Thiếu lao động phục vụ cho sản xuất, trình độ lao động còn hạn chế làm ảnh hưởng đến việc tuyển dụng lao động vào làm việc ở khu vực này.

Thương mại dịch vụ, du lịch

Quý I/2023, hoạt động thương mại dịch vụ đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng phục vụ sinh hoạt, sản xuất trong toàn tỉnh. Tết Nguyên đán diễn ra trong quý 1 nên nhu cầu tiêu dùng của người dân tăng cao so quý trước, hoạt động thương mại, dịch vụ diễn ra sôi động, công tác bình ổn thị trường được các ngành chức năng triển khai tích cực, ngăn chặn kịp thời các hành vi tăng giá bất hợp lý, buôn bán, vận chuyển hàng cấm, hàng nhập lậu, vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm. Trong quý báo cáo, toàn tỉnh Bến Tre không xảy ra tình trạng sốt hàng, sốt giá. Doanh thu bán lẻ hàng hóa, dịch vụ ước thực hiện đạt 15.542,05 tỷ đồng, tăng 8,54% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 12.844,66 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 82,64%, tăng 8,84%; doanh thu các ngành dịch vụ khác đạt 1.126,34 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 7,25%, tăng 11,79%; doanh thu lưu trú ăn uống, du lịch đạt 1.571,05 tỷ, chiếm tỷ trọng 10,11%, so cùng kỳ tăng 4,03%.

Trong quý I/2023, các doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn tỉnh Bến Tre đã chuẩn bị đa dạng, phong phú nguồn hàng: từ những mặt hàng lương thực thực phẩm thiết yếu đến những hàng may mặc, trang trí nội thất, phương tiện đi lại phục vụ Tết... Tổng mức bán lẻ hàng hoá thực hiện đạt 12.884,66 tỷ đồng, tăng 8,84% so cùng kỳ năm trước, trong đó: nhóm lương thực thực phẩm đạt doanh thu 5.379,25 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng cao nhất đạt 41,88%, tăng 11,82% so cùng kỳ; kế đến là nhóm gỗ và vật liệu xây dựng đạt 1.822,07 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 14,19%, giảm 0,18% so cùng kỳ; nhóm xăng dầu các loại đạt 1.495,06 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 11,64%, tăng 31,02% so với cùng kỳ; nhóm đồ dùng trang thiết bị gia đình đạt doanh thu 944,77 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 7,36%, tăng 8,46% so cùng kỳ do nhu cầu mua sắm trang thiết bị gia đình tăng cao trong tháng Tết nguyên đán Quý Mão năm 2023.

Doanh thu hoạt động lưu trú, ăn uống quý I/2023 ước đạt 1.556,14 tỷ đồng, so cùng kỳ năm trước tăng 3,41%, trong đó: dịch vụ lưu trú đạt 45,42 tỷ đồng, tăng 23,76%; hoạt động ăn uống ước đạt 1.510,73 tỷ đồng, tăng 2,91% so cùng kỳ năm trước.

Do trong năm 2022, ảnh hưởng của tình hình dịch COVID-19, người dân hạn chế tham gia các hoạt động đông người, hiện nay tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt nên hoạt động vui chơi, giải trí trở nên sôi nổi. Nhờ đó, doanh thu du lịch lữ hành của tỉnh ước tính quý I/2023 đạt doanh thu 14,91 tỷ đồng, tăng mạnh so với cùng kỳ. Doanh thu dịch vụ thực hiện quý I/2023 đạt 1.126,34 tỷ đồng, so cùng kỳ năm trước tăng 11,79%, trong đó: Dịch vụ kinh doanh bất động sản đạt 29,34 tỷ đồng, tăng 12,63%, dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ đạt 73,07 tỷ đồng, tăng 30,14%; dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội đạt 99,07 tỷ đồng, tăng 17,17%; dịch vụ nghệ thuật vui chơi giải trí đạt 732,10 tỷ đồng, tăng 10,54%; dịch vụ sửa máy vi tính và đồ dùng gia đình đạt 54,69 tỷ đồng, tăng 7,11%; dịch vụ phục vụ cá nhân khác đạt 127,76 tỷ đồng, tăng 4,28% so cùng kỳ.

Hoạt động giao thông vận tải trong quý I/2023 đáp ứng tốt nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hóa của người dân, các phương tiện vận tải hành khách công cộng bằng đường bộ như xe khách, xe buýt, taxi hoạt động ổn định, cơ quan chức năng tăng cường kiểm tra, quản lý giá xe buýt và giá xe khách phù hợp, phục vụ tốt nhu cầu đi lại cho nhân dân. Doanh thu hoạt động vận tải, bốc xếp, dịch vụ thực hiện quý I/2023 đạt 725,21 tỷ đồng, tăng 17,31% so với cùng kỳ năm 2022, trong đó: Doanh thu vận tải hành khách đạt 352,98 tỷ đồng, tăng 12,26%; doanh thu vận tải hàng hoá đạt 266,99 tỷ đồng, tăng 16,68% so cùng kỳ; doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 104,79 tỷ đồng, tăng 40,57%; doanh thu bưu chính, chuyển phát đạt 0,45 tỷ đồng, tăng 16,62% so cùng kỳ năm trước.

Khối lượng hành khách vận chuyển quý báo cáo ước đạt 3.005 nghìn hành khách, tăng 11,18% so với cùng kỳ năm trước, trong đó đường bộ ước vận chuyển 1.512 nghìn hành khách, tăng 5,44%, đường thủy nội địa ước đạt 1.493 nghìn hành khách tăng 17,67% so với cùng kỳ.  Khối lượng hàng hoá vận chuyển ước thực hiện ước đạt 1.975 nghìn tấn, tăng 9,78% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: đường bộ ước đạt 843 nghìn tấn, tăng 16,76%; đường thủy nội địa ước đạt 973 nghìn tấn, tăng 3,29%.

Tổng số điểm phục vụ bưu chính hiện có là 206 điểm, trong đó bưu cục là: 68 điểm, điểm bưu điện văn hóa là: 108 điểm. Đến nay 100% các xã, phường, thị trấn đều có Bưu điện khu vực hoặc Bưu điện Văn hoá xã; 100% xã có thư báo đến trong ngày, phát báo chí cho độc giả trước 7 giờ sáng tại trung tâm Thành phố và 8 giờ 30 tại các huyện. Trong quý I/2023, sản lượng dịch vụ thư: 60.526 thư; sản lượng dịch vụ gói, kiện hàng hóa 261.472 kiện. Doanh thu dịch vụ bưu chính đạt 15,266 tỷ; doanh thu viễn thông ước thực hiện 446,94 tỷ đồng. Qua đó, tổng doanh thu dịch vụ bưu chính và viễn thông đạt 462,20 tỷ đồng, đạt 25,32% kế hoạch năm 2023.

Bên cạnh những thành tựu về kinh tế, hoạt động khoa học và công nghệ của Bến Tre cũng đạt một số kết quả quan trọng. Công tác xây dựng nông thôn mới (NTM) tiếp tục được các ngành, các cấp tích cực triển khai. Đến nay, có 80 xã được công nhận xã đạt chuẩn NTM (trong đó, có 23 xã đạt chuẩn NTM nâng cao; 02 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu), 16 xã đạt 15-18 tiêu chí, 41 xã đạt 10-14 tiêu chí và 05 xã đạt dưới 10 tiêu chí (do đánh giá lại theo tiêu chí mới); trung bình đạt tiêu chí trên xã là 16,2 tiêu chí/xã. Sự tăng trưởng kinh tế trong quý I năm 2023 được kỳ vọng sẽ trở thành động lực mở đầu cho phát triển kinh tế - xã hội toàn tỉnh Bến Tre trong những tháng tiếp theo./.

 
Thu Hiền (nguồn TT từ Cục Thống kê tỉnh Bến Tre)

Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top