Nâng cao chất lượng hạ tầng giao thông để phát triển kinh tế

06/11/2023 - 03:42 PM
Trong xu thế hội nhập quốc tế, kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, phát triển đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc kết nối sản xuất với tiêu thụ, vận chuyển hàng hóa, thúc đẩy giao lưu kinh tế giữa các vùng, các quốc gia, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội.

Thực trạng hạ tầng giao thông Việt Nam

Tại Việt Nam, nhận thức được tầm quan trọng của đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông đối với phát triển kinh tế, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề này và cụ thể hóa bằng các chiến lược, chính sách. Nhờ đó, hạ tầng giao thông của Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ theo hướng đồng bộ, hiện đại, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống Nhân dân, rút ngắn khoảng cách giữa các vùng miền. Các công trình giao thông được quy hoạch và đầu tư theo hướng đồng bộ, hiện đại như: Đường bộ cao tốc, sân bay, cảng biển quốc tế đạt tiêu chuẩn khu vực và thế giới. Trong đó phải kể đến việc quy hoạch mạng lưới đường bộ cao tốc quốc gia kết nối các trung tâm kinh tế trọng điểm Bắc - Nam; các cửa khẩu, sân bay, cảng biển quốc tế và các tuyến đường vành đai đô thị có nhu cầu vận tải lớn; tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam và hệ thống đường sắt đô thị tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; các cảng biển cửa ngõ quốc tế (Lạch Huyện, Vân Phong và Cái Mép - Thị Vải); mạng đường bay theo mô hình nan quạt với tần suất khai thác cao tại 2 đầu Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh…

Theo Bộ Giao thông vận tải, quy hoạch mạng lưới đường bộ Việt Nam thời kỳ 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2050 tại Quyết định số 1454/QĐ-TTg ngày 01/9/2022, đảm bảo kết nối thuận lợi các trung tâm kinh tế, cảng biển, cửa khẩu; hệ thống quốc lộ được phân bổ theo các trục dọc, trục ngang, trục hướng tâm tạo thành các hành lang vận tải.

 
Nâng cao chất lượng hạ tầng giao thông để phát triển kinh tế
Việt Nam tích cực nâng cao chất lượng hạ tầng giao thông để phát triển kinh tế
 
Về hạ tầng đường bộ, hiện nay, trên toàn quốc có tổng chiều dài đường bộ 595,2 nghìn km, trong đó, đường bộ quốc gia (quốc lộ, cao tốc) là 25,6 nghìn km. Tính đến cuối năm 2022, mạng lưới đường cao tốc đã đưa vào khai thác khoảng 23 đoạn tuyến, tương đương với 1.239 km; đang triển khai xây dựng khoảng 14 tuyến, đoạn tuyến, tương đương với 840 km. Hệ thống quốc lộ được trải mặt nhựa đạt khoảng 64,8%, còn lại là mặt đường bê tông xi măng, láng nhựa và cấp phối. Đường có quy mô 1 làn xe chiếm 11%, quy mô 2 làn xe chiếm khoảng 74,5%, quy mô 4 làn xe chiếm 13,9%, quy mô từ 6 - 10 làn xe chiếm 0,5%, còn lại là đường xen kẽ với bề rộng khác nhau.

Về hạ tầng đường sắt, mạng lưới đường sắt quốc gia có tổng chiều dài 3.143 km và có 277 ga, trong đó 2.703 km đường chính tuyến, 612 km đường ga và đường nhánh. Mạng lưới đường sắt kết nối với nhau tại khu đầu mối Hà Nội, hiện đi qua địa bàn của 34 tỉnh, thành phố, gồm 4/6 vùng kinh tế của cả nước. Mật độ đường sắt đạt khoảng 9,5 km/1000 km2 (là mức trung bình của khối ASEAN và thế giới). Hiện có 02 tuyến kết nối với Trung Quốc tại Đồng Đăng (tuyến liên vận Hà Nội - Đồng Đăng) và tại Lào Cai (tuyến Hà Nội - Lào Cai). Mạng lưới đường sắt quốc gia bao gồm 3 loại khổ đường, chủ yếu là khổ đường 1.000 mm (chiếm 85%), còn lại là khổ đường 1.435 mm (6%) và khổ đường lồng 1.435/1.000 mm (9%).

Về hệ thống cảng biển, hầu hết các cảng của Việt Nam gắn liền với các trung tâm, các vùng kinh tế lớn với vai trò là đầu mối phục vụ xuất nhập khẩu hàng hóa và tạo động lực phát triển toàn vùng như: Quảng Ninh, Hải Phòng gắn với Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc; Nghi Sơn, Hà Tĩnh, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn gắn với Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung; Khánh Hòa, Bà Rịa - Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai gắn với vùng kinh tế động lực Đông Nam Bộ; Cần Thơ, Long An, An Giang gắn với Vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long. Hệ thống cảng biển Việt Nam hiện có 286 bến cảng, phân bố theo 5 nhóm cảng biển, tổng chiều dài cầu cảng hơn 96 km, được chú trọng đầu tư với quy mô, công nghệ hiện đại vươn tầm quốc tế. Đặc biệt là hệ thống cảng container (02 cảng biển lớn của Việt Nam là Hải Phòng và TP. Hồ Chí Minh đều nằm trong top 50 cảng container lớn trên thế giới).

Việt Nam đã thiết lập được 32 tuyến vận tải biển, trong đó 25 tuyến vận tải quốc tế và 7 tuyến vận tải nội địa. Ngoài các tuyến nội Á, khu vực phía Bắc đã khai thác 2 tuyến đi Bắc Mỹ; phía Nam đã hình thành được 16 tuyến tàu xa đi Bắc Mỹ và châu Âu vượt trội hơn các nước khu vực Đông Nam Á (chỉ sau Malaysia và Singapore). Ngoài ra, hạ tầng đường thủy nội địa của Việt Nam cũng đã được quy hoạch, có tổng chiều dài 17 nghìn km, đã quy hoạch 45 tuyến vận tải thủy chính: Miền Bắc có 17 tuyến, miền Trung có 10 tuyến, miền Nam có 18 tuyến. Cả nước có 292 cảng thủy nội địa: 217 cảng hàng hóa, 12 cảng hành khách, 02 cảng tổng hợp và 63 cảng chuyên dụng.

Về hạ tầng cảng hàng không, tính đến cuối năm 2022, cả nước có 22 cảng hàng không đang khai thác với tổng diện tích khoảng 11,8 nghìn ha; trong đó có 9 cảng hàng không quốc tế và 13 cảng hàng không quốc nội được phân chia theo 03 khu vực Bắc, Trung, Nam, trong đó khu vực miền Bắc có 07 cảng; khu vực miền Trung có 07 cảng; khu vực miền Nam có 08 cảng.

Với hệ thống hạ tầng giao thông tương đối đồng bộ, việc vận chuyển, luân chuyển hành khách, hàng hóa có nhiều chuyển biến tích cực. Theo Tổng cục Thống kê, Tính chung 9 tháng năm 2023, vận tải hành khách cả nước ước đạt 3.406 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 13,1% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 tăng 49%) và luân chuyển đạt 184 tỷ lượt khách.km, tăng 27,9% (cùng kỳ năm trước tăng 73,7%). Trong đó, vận tải trong nước ước đạt 3.394,5 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 12,9% so với cùng kỳ năm trước và 150,5 tỷ lượt khách.km luân chuyển, tăng 11,7%; vận tải ngoài nước ước đạt 11,5 triệu lượt khách vận chuyển, gấp 4 lần và 33,5 tỷ lượt khách.km luân chuyển, gấp 3,7 lần cùng kỳ năm trước.

Tính chung 9 tháng năm 2023 Vận tải hàng hóa ước đạt 1.686,2 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 14,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 tăng 22,7%) và luân chuyển 359,8 tỷ tấn.km, tăng 12,5% (cùng kỳ năm trước tăng 31,7%). Trong đó, vận tải trong nước ước đạt 1.653,1 triệu tấn vận chuyển, tăng 14,8% và 226,4 tỷ tấn.km luân chuyển, tăng 16,6%; vận tải ngoài nước ước đạt 33,1 triệu tấn vận chuyển, tăng 2,8% và 133,4 tỷ tấn.km luân chuyển, tăng 6,2%.

Nâng cao chất lượng hạ tầng giao thông

Giao thông được ví như “mạch máu” của nền kinh tế, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông “đi trước một bước” là đòi hỏi bức thiết trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Mặc dù hạ tầng giao thông của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tuy nhiên, vẫn là “điểm nghẽn” đối với nhu cầu phát triển đất nước như: Đường bộ cao tốc mới bước đầu hình thành, chưa hoàn thành mục tiêu đặt ra; hệ thống đường sắt lạc hậu, chưa đầu tư được đường sắt tốc độ cao; cảng biển chưa khai thác hết công suất; một số cảng hàng không đã quá tải… Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả phát triển kinh tế, thể hiện rõ nét trong hoạt động logistic.

Trong công bố năm 2023, chỉ số LPI (Chỉ số Hiệu quả Logistics) của Việt Nam đạt 3,3 điểm, tuy tăng cao hơn lần công bố trước (3,27 điểm) nhưng lại tụt 4 hạng so với lần công bố LPI gần nhất vào năm 2018, với thứ hạng 43 trên tổng số 160 quốc gia. Theo ước tính, chi phí dịch vụ logistics của Việt Nam khoảng 20% GDP, vẫn cao hơn nhiều so với các nước phát triển như Mỹ và cao hơn các nước đang phát triển như Trung Quốc hay Thái Lan. Theo thống kê, có hơn 50% số đường bộ ở tình trạng kém chất lượng và không đảm bảo an toàn cho vận chuyển hàng hóa, 50% số cảng biển, hơn 40% số sân bay chịu tình trạng quá tải và thiếu hụt các tiện ích phục vụ logistics… Tất cả những yếu tố này khiến cho hàng Việt giảm sức cạnh tranh.

Để hạ tầng giao thông phát triển hiện đại, đồng bộ phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế - xã hội, nhiều quyết sách đã được ban hành, trong đó phải kể đến Quyết định số 1454/QĐ-TTg ngày 01/9/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, có tổng nhu cầu vốn đầu tư trong lĩnh vực đường bộ giai đoạn 2021-2030 khoảng 900.000 tỷ đồng. Mục tiêu là cơ bản hoàn thành các tuyến cao tốc kết nối liên vùng, kết nối các cảng biển cửa ngõ quốc tế, cảng hàng không, cửa khẩu quốc tế, phấn đấu xây dựng hoàn thành khoảng 5.000 km đường bộ cao tốc; Tập trung nâng cấp mặt đường, tăng cường hệ thống an toàn giao thông, xử lý các điểm đen, cải tạo nâng cấp các cầu yếu… Hay như Quyết định số 1769/QĐ-TTg về phê duyệt Quy hoạch mạng lưới đường sắt giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn 2050 đặt mục tiêu cải tạo nâng cấp để khai thác có hiệu quả các tuyến đường sắt hiện có, kết nối thông suốt tuyến đường sắt liên vận quốc tế. Dự kiến đến năm 2030 sẽ xây dựng mới 09 tuyến đường sắt với tổng chiều dài 2.362 km, trong đó, có tuyến sắt tốc độ cao Bắc - Nam, đường đôi, khổ 1.435 mm, dài khoảng 1.545 km; triển khai xây dựng đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam…

Về cảng biển, ngày 22/9/2021, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, tổng nhu cầu vốn đầu tư đến năm 2030 khoảng 313.000 tỷ đồng. Theo đó, đến năm 2030, quy mô và chức năng, hệ thống cảng biển Việt Nam gồm 5 nhóm cảng biển với 36 cảng biển, 02 cảng biển đặc biệt (Hải Phòng, Bà Rịa - Vũng Tàu), 15 cảng biển loại I, 06 cảng biển loại II, 13 cảng biển loại III, dự kiến đáp ứng lượng hàng thông qua khoảng 1,14 - 1,42 tỷ tấn.

Mới đây, ngày 7/6/2023, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 646/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển cảng hàng không, sân bay quốc tế thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050, với nhu cầu vốn đầu tư hệ thống cảng hàng không đến năm 2030 khoảng 420.000 tỷ đồng. Trong đó, thời kỳ 2021-2030, hệ thống cảng hàng không được quy hoạch theo mô hình trục nan với 2 đầu mối chính tại Thủ đô Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh; hình thành 30 cảng hàng không, gồm 14 cảng hàng không quốc tế, 16 càng hàng không quốc nội. Tổng sản lượng hành khách thông qua cảng hàng không khoảng 275,9 triệu hành khách, chiếm 1,5-2% thị phần giao thông vận tải và 3-4% tổng sản lượng vận tải hành khách liên tỉnh. Tổng sản lượng hàng hóa thông qua các cảng hàng không đạt khoảng 4,1 triệu tấn. Đến năm 2050, hình thành 33 cảng hàng không, gồm 14 cảng hàng không quốc tế, 19 cảng hàng không quốc nội…

Để triển khai Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tháng Sáu vừa qua, Bộ Giao thông vận tải cũng đã ban hành Chương trình hành động. Theo đó, về hạ tầng, Bộ Giao thông vận tải sẽ tập trung phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vùng đồng bằng sông Hồng theo hướng hiện đại, đồng bộ, ưu tiên phát triển các tuyến đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, cảng hàng không, cảng biển gắn với phát triển các hành lang kinh tế vùng, tạo đột phá, phát triển nhanh, bền vững. Tập trung khai thác hiệu quả các tuyến đường sắt hiện có, kết nối thông suốt tuyến đường sắt liên vận đạt tiêu chuẩn quốc tế; hoàn thành đầu tư, cải tạo, nâng cấp một số ga trên tuyến đường sắt hiện có. Giai đoạn đến năm 2030, Bộ Giao thông vận tải sẽ đầu tư hoàn thành đường Vành đai 5 - vùng Thủ đô Hà Nội, tuyến cao tốc Bắc - Nam phía Tây đoạn Cổ Tiết - Chợ Bến, Nội Bài - Bắc Ninh - Hạ Long; mở rộng đường cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ - Ninh Bình; Hà Nội - Bắc Giang; cải tạo, nâng cấp một số tuyến quốc lộ theo quy hoạch. Về đường sắt, phấn đấu khởi công tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, đầu tư tuyến Yên Viên - Phả Lại - Hạ Long - Cái Lân; huy động vốn để đầu tư các tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng (thuộc tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng), tuyến vành đai phía Đông - Hà Nội (đoạn Ngọc Hồi - Lạc Đạo - Bắc Hồng - Thạch Lỗi); chuẩn bị đầu tư tuyến Nam Định - Thái Bình - Hải Phòng...

Theo tính toán, hạ tầng giao thông là lĩnh vực có tác động lan toả lớn nhất, mức độ tác động từ 1,26-1,4 lần (có nghĩa đầu tư 1 đồng cho giao thông, có thể thu về 1,25 -1,4 đồng) và lan tỏa đến mọi lĩnh vực, từ y tế, giáo dục, văn hoá... Vì vậy, để kinh tế - xã hội phát triển, việc đầu tư nâng cao chất lượng hạ tầng giao thông để “đi trước mở đường” là yêu cầu cấp thiết hiện nay./.

 
Gia Linh
 
Các bài viết khác
Liên kết website
Liên kết website
Thăm dò ý kiến

Đánh giá khách quan của bạn về thông tin chúng tôi cung cấp? Vui lòng tích vào ô bên dưới để trả lời!

Top