Những năm gần đây, với việc triển khai thực hiện đồng bộ và hiệu quả nhiều cơ chế chính sách đặc thù phù hợp, giáo dục và đào tạo của vùng Tây Nguyên đã có nhiều chuyển biến tích cực. Mới đây, để đảm bảo các chỉ tiêu phát triển giáo dục, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đảm bảo phát triển kinh tế-xã hội theo tinh thần Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, các địa phương thuộc Vùng đang từng bước đẩy mạnh phát triển toàn diện giáo dục và đào tạo để đạt được mục tiêu chất lượng giáo dục của Vùng tiệm cận với mặt bằng chung của cả nước vào năm 2030.
Giáo dục và đào tạo vùng Tây Nguyên - Thành tựu và một số hạn chế trong giai đoạn 2011-2022
Khu vực Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng. Đây được xem là địa bàn có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh của cả nước. Tây Nguyên cũng là vùng có nhiều đặc trưng riêng từ vị trí địa lý, khí hậu thổ nhưỡng đến sự đa dạng, phong phú trong đời sống văn hóa dân cư. Vùng có gần 6 triệu người thuộc 54 dân tộc anh em, trong đó có 53 dân tộc thiểu số, với gần 2,2 triệu người, chiếm hơn 37,5% dân số toàn vùng.
Theo Báo cáo về thực trạng giáo dục và đào tạo vùng Tây Nguyên giai đoạn 2011-2022 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong 10 năm qua, hệ thống mạng lưới trường lớp học được củng cố và phát triển rộng khắp, đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của người dân. Các kết quả về giáo dục và đào tạo của toàn Vùng cơ bản đạt kết quả tích cực. Trong đó, về cơ bản, không còn xã trắng về giáo dục mầm non, mọi thôn bản đều có lớp mầm non. Tất cả các xã đều có trường tiểu học. Hầu hết các xã đã có trường THCS, các huyện đều có trường THPT. Nhiều địa phương đã xây dựng các trường THCS, THPT liên xã. Tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo 5 tuổi đến trường của Tây Nguyên đạt 99,6% - cao hơn so với bình quân cả nước và đứng thứ 3 toàn quốc. 100% trẻ em 5 tuổi tại các cơ sở giáo dục mầm non được học 2 buổi/ngày - cao hơn bình quân cả nước và cao hơn cả vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.
Học sinh vùng Tây Nguyên
Đến nay, về cơ bản toàn vùng Tây Nguyên đã đạt mục tiêu xóa mù chữ, 100% đơn vị cấp tỉnh, huyện, xã đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 1. Cùng với đó, 40% đơn vị cấp tỉnh đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2; 74,2% đơn vị cấp huyện đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2; cùng với 94% đơn vị cấp xã đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2. Tỷ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi ở cả ba cấp học trong những năm qua đều gia tăng, tương đương so với mức bình quân chung cả nước và tương đương với các vùng khác. Năm học 2020-2021, 5/5 tỉnh khu vực Tây Nguyên duy trì và đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học. Tỷ lệ cơ sở giáo dục tiểu học tổ chức dạy học 2 buổi/ngày đạt 94,1%; Tỷ lệ cơ sở giáo dục THCS tổ chức dạy học 2 buổi/ngày đạt 84%, tăng gần gấp đôi so với cách đây 10 năm.
Chất lượng giáo dục toàn diện đã có bước tiến bộ vững chắc. Chất lượng giáo dục phổ thông có chuyển biến tích cực và thu hẹp dần khoảng cách với các địa phương trong cả nước. Các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn từng bước được mở rộng, góp phần đa dạng hóa và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của vùng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Năm học 2021 - 2022, toàn vùng có 3.984 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, thường xuyên (tăng 494 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, thường xuyên so với năm học 2010 - 2011). Đặc biệt, các địa phương trong vùng đã chủ động thực hiện quy hoạch mạng lưới trường phổ thông dân tộc nội trú, nhằm đáp ứng nhu cầu tạo nguồn đào tạo nhân lực người dân tộc thiểu số. Toàn vùng có 59 trường phổ thông dân tộc nội trú và 68 trường phổ thông dân tộc bán trú. Trong đó, có 49/59 trường phổ thông dân tộc nội trú (chiếm tỷ lệ 83,05%) được công nhận đạt chuẩn quốc gia. Chất lượng giáo dục của các trường phổ thông dân tộc nội trú và bán trú được cải thiện qua từng năm học.
Bên cạnh đó, mặc dù là Vùng có thu nhập bình quân đầu người xếp thứ 5 trên 6 vùng của cả nước, chỉ cao hơn vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ, song Tây Nguyên lại là một trong những vùng có tốc độ phát triển giáo dục ngoài công lập cao nhất cả nước. Năm học 2020 - 2021, toàn vùng có 261 cơ sở giáo dục Mầm non, phổ thông ngoài công lập, tăng 150 cơ sở giáo dục so với cách đây 10 năm.
Ngành giáo dục và đào tạo các địa phương đã tích cực chăm lo, phát triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục đào tạo của mỗi địa phương. Việc bố trí, sử dụng cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên cơ bản đảm bảo theo khung năng lực, theo vị trí việc làm, chuyên môn đào tạo, phù hợp với điều kiện của địa phương. Năm học 2020 - 2021, toàn vùng có 82.066 giáo viên các cấp học (tăng 8.048 giáo viên, tương ứng 9,8% so với năm học 2010 - 2011). Đến nay, về cơ bản đội ngũ giáo viên đã được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng để thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018.
Tây Nguyên hiện có 9 cơ sở giáo dục đại học và phân hiệu của các trường đại học, 4 trường cao đẳng sư phạm và 107 cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Quy mô sinh viên đại học của vùng là trên 30.220 sinh viên. Trong đó, sinh viên là người dân tộc thiểu số chiếm 13,3%.
Có được những kết quả tích cực trên là do các địa phương trong Vùng đã triển khai đồng bộ và hiệu quả các chính sách về giáo dục và đào tạo. Trong đó, có sự tăng cường đầu tư cho phát triển giáo dục, hoạt động xã hội hóa giáo dục từng bước được đẩy mạnh. Những năm gần đây, tổng chi ngân sách nhà nước cho lĩnh vực giáo dục và đào tạo tại khu vực tăng dần qua các năm. Năm 2021, tổng chi ngân sách nhà nước cho lĩnh vực giáo dục và đào tạo là 12.812 tỷ đồng, tăng 56% so với năm 2011.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác giáo dục và đào tạo vùng Tây Nguyên còn tồn tại một số khó khăn, hạn chế như: Quy hoạch mạng lưới trường lớp còn bất cập; cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Nhiều cơ sở giáo dục trên địa bàn còn thiếu phòng học, phòng học đã xuống cấp và quá tải, phải học 2 ca, học nhờ, học tạm; thiếu thư viện, nhà vệ sinh, công trình nước sạch. Trang thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập còn thiếu, nhiều thiết bị đã cũ, bị hỏng, xuống cấp không đáp ứng yêu cầu dạy, học theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, nhất là ở các huyện vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Cơ cấu giáo viên giữa các môn học, cấp học chưa đồng bộ, vẫn còn tình trạng thừa, thiếu cục bộ tại các địa phương, trường học…
Chất lượng giáo dục vùng Tây Nguyên còn thấp hơn mặt bằng chung của cả nước; chất lượng dạy học môn tiếng dân tộc thiểu số chưa đáp ứng được kỳ vọng; chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực dân tộc thiểu số chưa đáp ứng được yêu cầu. Số lượng, chất lượng, cơ cấu đội ngũ giáo viên còn bất cập, vẫn còn tình trạng thừa, thiếu cục bộ tại các địa phương, trường học. Số lượng giáo viên bỏ việc, ra khỏi ngành có xu hướng gia tăng ở một số địa bàn khó khăn làm tăng thêm áp lực về vấn đề thiếu giáo viên. Bên cạnh đó, những năm gần đây tình trạng tăng dân số tự nhiên và cơ học do di cư tự do ở các địa phương trong vùng tăng, dẫn đến số học sinh do di cư tự do tăng mạnh, khiến số giáo viên đã thiếu lại càng thiếu hơn. Công tác xã hội hóa giáo dục nhiều nơi còn hạn chế do đời sống kinh tế - xã hội miền núi, vùng dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn…
Phát triển toàn diện giáo dục và đào tạo vùng Tây Nguyên giai đoạn tới
Trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được cũng như những khó khăn, tồn tại trong hoạt động giáo dục, đào tạo thời gian qua của vùng Tây Nguyên, mới đây tại Hội nghị phát triển giáo dục và đào tạo vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đề ra mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo của vùng đến năm 2030. Trong đó, tập trung đổi mới căn bản và toàn diện theo hướng cơ bản chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa; nâng cao chất lượng giáo dục, bao gồm giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, năng lực sáng tạo, năng lực ngoại ngữ, tin học; cơ bản đáp ứng được nhu cầu nhân lực của sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của vùng; tăng cơ hội tiếp cận giáo dục chất lượng cao cho đồng bào dân tộc, tạo điều kiện cho người dân học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập. Quy hoạch mạng lưới trường, lớp hợp lý hơn; củng cố và phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc bán trú, trường phổ thông dân tộc nội trú và trường dự bị đại học. Xây dựng đề án kiên cố hóa trường, lớp tại vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn giai đoạn 2021-2025. Nâng cao chất lượng, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, nhất là nhân lực đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, gắn với nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ Tổ quốc đến năm 2030, tầm nhìn 2045, coi đây là khâu đột phá cho sự phát triển nhanh và bền vững của vùng. Đến năm 2030, các chỉ tiêu về chất lượng giáo dục, đào tạo của vùng Tây Nguyên tiệm cận với mặt bằng chung của cả nước. Đến năm 2045, phát triển giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên tiệm cận với các vùng khác trên cả nước và từng bước tiệm cận với nền giáo dục trong khu vực.
Để đạt được những mục tiêu trên, các tỉnh vùng Tây Nguyên cần tiếp tục nỗ lực tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, tạo cơ chế tốt để đẩy mạnh phát triển toàn diện giáo dục đạt mục tiêu đảm bảo nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng.
Một số nhiệm vụ cụ thể được đề cập tới, bao gồm: Các địa phương cần có nhận định, đánh giá khách quan về đặc điểm riêng của mỗi địa phương cũng như chung với toàn vùng để kịp thời đưa ra những chính sách, định hướng phát triển phù hợp; tiếp tục phát huy hiệu quả công tác xã hội hóa giáo dục; tập trung cao độ cho việc triển khai hiệu quả Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, trong đó chú trọng tăng cường đầu tư cơ sở vật chất đảm bảo đổi mới hiệu quả giáo dục; chú trọng bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên; quy hoạch mạng lưới trường, lớp khoa học, đảm bảo tạo thuận lợi cho phụ huynh và học sinh; giáo dục phổ thông của Tây Nguyên phải đảm bảo bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc trên địa bàn. Bên cạnh đó, cần tiếp tục nâng cao dân trí cho người dân nhằm đảm bảo phục vụ hiệu quả quá trình phát triển kinh tế - xã hội; tiếp tục đề ra các giải pháp nhằm tăng tỷ lệ người học đại học trong độ tuổi nhằm góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực...
Ngoài ra, ngành giáo dục và đào tạo các địa phương trong Vùng cần chủ động thực hiện rà soát quy hoạch, phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, thường xuyên bảo đảm phù hợp với thực tiễn, có các biện pháp, phương án cụ thể giải quyết vấn đề trường, lớp tại từng địa bàn; có cơ chế, chính sách ưu đãi về đất đai để thu hút các nhà đầu tư tư nhân tham gia phát triển các cơ sở giáo dục tư thục; bảo đảm mức chi tối thiểu 20% ngân sách địa phương cho giáo dục theo quy định; có kế hoạch đặt hàng, định hướng các cơ sở đào tạo để cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cao, phù hợp với địa phương.
Với đặc điểm là vùng nhiều khó khăn, giáo dục Tây Nguyên đang phải thực thi nhiệm vụ nặng nề hơn so với các vùng khác. Theo đó, Vùng vừa phải giải quyết yêu cầu khó theo kịp các vùng khác, vừa phải thực hiện đổi mới như mọi vùng, cùng với đó là làm nhiệm vụ với đồng bào dân tộc. Tuy nhiên với thế mạnh, tiềm năng trong phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, chế biến nông sản... cùng những định hướng, cơ chế chính sách đặc thù riêng phù hợp, tin tưởng rằng bài toán về nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực tại Tây Nguyên sẽ có lời giải phù hợp, hiệu quả, đảm bảo mục tiêu đến năm 2030, các chỉ tiêu về chất lượng giáo dục, đào tạo của vùng Tây Nguyên tiệm cận với mặt bằng chung của cả nước; Và đến năm 2045, phát triển giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên tiệm cận với các vùng khác trên cả nước và từng bước tiệm cận với nền giáo dục trong khu vực./.
TS. Đặng Quang Trung
Trường Đại học Lao động - Xã hội